TỈNH PHÚ YÊN
Tỉnh Phú Yên, diện tích 5.060 km vuông. Dân số năm 2011 là 871.900 người, mật độ 172 người/ km vuông. Sắc dân: Kinh, Ê Đê, Ba Na, Chăm, Ba Na, Hoa... Tỉnh Phú Yên gồm có: Thành phố Tuy Hoà, thị xã Sông Cầu và 7 huyện: Tây Hoà, Tuy An, Đông Hoà, Phú Hoà, Đồng Xuân, Sơn Hoà, Sông Hinh. Tỉnh lỵ ở thành phố Tuy Hoà. Phú Yên thuộc miền trung Việt Nam, Phú Yên cách Hà Nội 1.160 km, cách thành phố Sài Gòn 561 km.
Tỉnh Phú Yên bắc giáp Bình Định, tây giáp Gia Lai và Đắk Lắk, nam giáp Khánh Hoà, đông giáp biển Đông (dài 189 km). Nhiệt độ trung bình 26 độ C. Các sông lớn chảy qua tỉnh: Sông Đà Rằng (sông Ba), sông Kỳ Lộ, sông Bàn Thạch. Phú Yên có 3 mặt là núi, phía Bắc là đèo Cù Mông, phía Nam là Đèo Cả, phía Tây là mạn sườn Đông của dãy Trường Sơn. Đồng lúa ở huyện Tuy Hòa (cả quận Hiếu Xương cũ) là đồng lúa lớn ở miền Trung. Phú Yên kinh tế đang phát triển, phố xá mở mang, người dân chân chỉ. Tỉnh có nhiều rừng núi, biển rộng, đất đai trù phú. Nông, lâm, thủy sản đều có dồi dào; lại có nhiều suối nước khoáng: Phú Sen, Triêm Đức, Trà Ô...
Giao thông: Đường hàng không có sân bay Đông Tác đi Hà Nội, Sài Gòn. Đường sắt Bắc-Nam qua tỉnh với ga chính là Tuy Hòa. Đường bộ, quốc lộ 1A xuyên qua tỉnh, chiều dài khoảng 180 km. Quốc lộ 25 đi Gia Lai; quốc lộ 29 nối huyện Đông Hà (nơi Vũng Rô) đến thị xã Buôn Hồ (Đắk Lắk).
Lịch sử tỉnh Phú Yên: Năm 1471, vua Lê Thánh Tông chinh phạt Chiêm Thành, khi tới núi Thạch Bi Sơn (núi Đá Bia, gần Đèo Cả), vua cho khắc bia vào hòn đá to vuông vức trên đỉnh núi cao 706m: "Dĩ nam Chiêm Thành, dĩ bắc Đại Việt" để phân định lãnh thổ Việt-Chiêm, đứng xa vài trăm dặm đều trông thấy Đá Bia rõ ràng. Tuy nhiên, sau đó vua Lê, chỉ sáp nhập vùng đất từ đèo Cù Mông (phía bắc Phú Yên) trở ra vào lãnh thổ Đại Việt. Sau khi vua cho ban sư, quân Chiêm trở lại vùng đất Phú Yên. Khi xưa, nơi này người Chiêm gọi tên là Ayaru. Năm 1578, chúa Nguyễn Hoàng, cử Lương Văn Chánh đánh chiếm thành Hồ của Chiêm Thành, ở xã Hoà Định, huyện Tuy Hòa. Từ đó, chúa Nguyễn chiêu tập và đưa lưu dân từ Thanh-Nghệ, Thuận-Quảng vào đây để khẩn hoang lập ấp và lập nghiệp. Vùng đất Aryaru đổi tên là Phú Yên. Năm 1976, Phú Yên và Khánh Hoà sáp nhập thành tỉnh Phú Khánh. Ngày 1-7-1989, tỉnh Phú Yên được tái lập lại cho đến ngày nay.
Nhớ công đức vua Lê Thánh Tông, dân Phú Yên đã lập đền thờ ngài ở thôn Long Uyên, huyện Tuy An, với câu đối:
"Giang san khai thác hà niên, phụ lão tương truyền Hồng Đức sự.
Trở đậu hình hương thử địa, thanh linh trường đối Thạch Bi cao".
Nghĩa: Khai sáng sông núi, bô lão thiết tha thời Hồng Đức,
Cung kính dâng hương, đất linh huyền diệu Đá Bia cao.
Người Phú Yên gọi "nẫu" là tiếng chỉ "người ta", người nơi khác nghe lạ lẫm. Nhưng đã quen thì thấy thân thiện.
Phú Yên có nhiều chùa: Chùa Đá Trắng (Từ Quang) ở huyện Tuy An, ở trên triền đồi toàn đá trắng, được vua ban sắc tứ năm 1889, có Đại hồng chung từ kinh đô Phú Xuân đưa vào năm 1915. Chùa Bảo Tịnh ở thành phố Tuy Hoà...
Đập Đồng Cam là công trình ngăn nước dòng sông Ba (sông Đà Rằng), khởi công năm 1923, do các kỹ sư Pháp là: Fargues, Machefaux và Carrez thực hiện dự án. Đập hoàn thành năm1932. Đập Đồng Cam dài 680m, bề mặt đập rộng 2m. Nước đập chảy vào 2 mương chính, mương phía nam chảy về quận Hiếu Xương (nam Tuy Hòa) dài 36 km, kinh phí 1.107.560 đồng, mương phía bắc chảy về quận Tuy Hoà dài 32 km, kinh phí 1.384.000 đồng. Xây đập kinh phí 663.000 đồng, cộng lại là 3.650.000 đồng tiền Đông Dương. Lễ khánh thành đập ngày 7-9-1932, với sự hiện diện Toàn quyền Đông Dương là Pierre Pasquier. Đập Đồng Cam ngoài việc cung cấp nước cho ruộng đồng, còn là thắng cảnh, nước đổ ào ào, bên bờ cỏ cây tươi tốt, phong cảnh nên thơ.
Văn hoá và Lễ hội: Phú Yên có thể loại hát bài chòi, đó là loại hát dân gian phổ biến ở Phú Yên. Hội thơ đêm nguyên tiêu (rằm tháng giêng) hàng năm tổ chức tại Sân tháp Nhạn ở thành phố Tuy Hòa, điều ấy nói lên dân Phú Yên thích thú về thơ phú.
Mộ và đền chí sĩ Lê Thành Phương ở huyện Tuy An, ông chiêu mộ Nghĩa quân chống Pháp năm 1885, chiếm được Phú Yên; sau đó, ông bị Pháp bắt hành quyết năm 1887; lễ hội được tổ chức tại đền vào ngày ông mất là 28 tháng Giêng âm lịch (20-2-1887-DL), ở xã An Hiệp, Tuy An. Mộ và đền Lương Văn Chánh, ông đã hướng dẫn dân chúng khai khẩn vùng đất Phú Yên, sau khi ông mất dân chúng tôn ông là tiền hiền tỉnh Phú Yên; lễ hội tổ chức tại đền ngày ông mất là 19-9 âm lịch (1611-DL), ở xã Hòa Trị, Tuy Hòa.
Vịnh Vũng Rô, ở phía nam thành phố Tuy Hoà 25 km, thuộc xã Hòa Xuân Nam, bên cạnh Đèo Cả. Vũng Rô có diện tích 16,4 km2 mặt nước. Được 3 dãy núi cao che chắn: Bắc có Đá Bia, tây có Đèo Cả và đông có Hòn Bà, nên vịnh luôn êm ả, tàu thuỷ có thể ra vào trọng tải 10.000 tấn. Vịnh có một số bãi đẹp: Bãi Chùa, Bãi Bàng, Bãi Lau, có thể tắm và bơi lội. Phía Nam vịnh có đảo Hòn Nưa cao 105 m, như một pháo đảo, trên đảo có ngọn đèn biển lớn. Gần Vũng Rô có hòn Vọng Phu bồng con, như đứng mòn mỏi trông chồng. Vũng Rô ngày nay đang xây dựng nhà máy lọc dầu.
Phong cảnh Phú Yên: Tháp Nhạn trên đỉnh Núi Nhạn trông cao chất ngất, núi ở phía tây nam thành phố Tuy Hòa. Chân núi phía nam là bờ sông Đà Rằng, phía tây kề quốc lộ 1 đi Bắc Nam. Tháp xây khoảng thế kỷ 11, tiêu biểu nghệ thuật kiến trúc người Chăm khi xưa. Tháp cao 25m, chân tháp mỗi cạnh rộng 11m. Dưới chân núi phía tây nam có tảng đá phẳng phiu, cao 5m, rộng 5m, khắc chữ Phạn cổ. Núi Nhạn, sông Đà là biểu tượng vùng đất thơ mộng Phú Yên. Ghềnh Đá Đĩa thuộc huyện Tuy An, những tảng đá cấu trúc lạ lẫm, hình ngũ giác xếp đều đặn trên một vùng rộng lớn. Nhìn từ xa, trông giống như chồng bát đĩa đồ sộ. Phía trước ghềnh là một hang sâu và rộng chứa cả trăm người. Cầu Đà Rằng có 21 nhịp dài tít tắp, trên dòng sông lưa thưa những chiếc buồm trắng nhấp nhô trông thơ mộng. Thắng cảnh và di tích Phú Yên còn có: Mũi Điện, Núi Đá Bia. Đầm Ô Loan. Vịnh Xuân Đài... Đặc sản Phú Yên có rất nhiều, đặc biệt sò huyết đầm Ô Loan, bắt sò tươi đem nướng, hương vị ngọt ngào, ăn vào bồi bổ máu huyết rất tốt.
Sông Đà, núi Nhạn Phú Yên
Biển, đồng rộng rãi ngẫm nghiền nhớ nhung
Cảm tác: Non nước Phú Yên
Phú yên, có Núi Nhạn, Sông Đà
Giáp giới phía nam, tỉnh Khánh Hoà
Tây cận núi rừng, rừng rậm rạp
Đông liền bờ biển, biển bao la
.
Phú Yên, kinh tế nhịp nhàng tăng
Dân dã cần cù, dẫu nhọc nhằn
Biển cả, lờn vờn tôm, cá, mực
Rừng sâu, chen chúc gỗ, tre măng
.
Đập Đồng Cam, ngăn nước Đà Rằng
Dẫn thủy nhập điền, nông phẩm tăng
Ngào ngạt lúa vàng, hương phản phất
Bồng bềnh buồm trắng, sóng lăn tăn
.
Phú Yên sông suối, chảy quanh co
Đồng ruộng thênh thang, đủ lúa ngô
Đình miếu chùa chiền, hình cổ kính
Ô Loan sò huyết, vị thơm tho
.
Vũng Rô bao bọc, bởi Hòn Bà
Gần núi Vọng Phu, đứng xót xa
Nhộn nhịp tàu bè, tung toé nước
Chập chờn đàn bướm, quẩn quanh hoa
.
Biển Đông dào dạt ở phương đông
Vòi vọi Đá Bia thăm thẳm trông
Núi Nhạn, Sông Đà, nhung nhớ dạ
Phú Yên non nước, vấn vương lòng
Nguyễn Lộc Yên
Tỉnh Phú Yên, diện tích 5.060 km vuông. Dân số năm 2011 là 871.900 người, mật độ 172 người/ km vuông. Sắc dân: Kinh, Ê Đê, Ba Na, Chăm, Ba Na, Hoa... Tỉnh Phú Yên gồm có: Thành phố Tuy Hoà, thị xã Sông Cầu và 7 huyện: Tây Hoà, Tuy An, Đông Hoà, Phú Hoà, Đồng Xuân, Sơn Hoà, Sông Hinh. Tỉnh lỵ ở thành phố Tuy Hoà. Phú Yên thuộc miền trung Việt Nam, Phú Yên cách Hà Nội 1.160 km, cách thành phố Sài Gòn 561 km.
Tỉnh Phú Yên bắc giáp Bình Định, tây giáp Gia Lai và Đắk Lắk, nam giáp Khánh Hoà, đông giáp biển Đông (dài 189 km). Nhiệt độ trung bình 26 độ C. Các sông lớn chảy qua tỉnh: Sông Đà Rằng (sông Ba), sông Kỳ Lộ, sông Bàn Thạch. Phú Yên có 3 mặt là núi, phía Bắc là đèo Cù Mông, phía Nam là Đèo Cả, phía Tây là mạn sườn Đông của dãy Trường Sơn. Đồng lúa ở huyện Tuy Hòa (cả quận Hiếu Xương cũ) là đồng lúa lớn ở miền Trung. Phú Yên kinh tế đang phát triển, phố xá mở mang, người dân chân chỉ. Tỉnh có nhiều rừng núi, biển rộng, đất đai trù phú. Nông, lâm, thủy sản đều có dồi dào; lại có nhiều suối nước khoáng: Phú Sen, Triêm Đức, Trà Ô...
Giao thông: Đường hàng không có sân bay Đông Tác đi Hà Nội, Sài Gòn. Đường sắt Bắc-Nam qua tỉnh với ga chính là Tuy Hòa. Đường bộ, quốc lộ 1A xuyên qua tỉnh, chiều dài khoảng 180 km. Quốc lộ 25 đi Gia Lai; quốc lộ 29 nối huyện Đông Hà (nơi Vũng Rô) đến thị xã Buôn Hồ (Đắk Lắk).
Lịch sử tỉnh Phú Yên: Năm 1471, vua Lê Thánh Tông chinh phạt Chiêm Thành, khi tới núi Thạch Bi Sơn (núi Đá Bia, gần Đèo Cả), vua cho khắc bia vào hòn đá to vuông vức trên đỉnh núi cao 706m: "Dĩ nam Chiêm Thành, dĩ bắc Đại Việt" để phân định lãnh thổ Việt-Chiêm, đứng xa vài trăm dặm đều trông thấy Đá Bia rõ ràng. Tuy nhiên, sau đó vua Lê, chỉ sáp nhập vùng đất từ đèo Cù Mông (phía bắc Phú Yên) trở ra vào lãnh thổ Đại Việt. Sau khi vua cho ban sư, quân Chiêm trở lại vùng đất Phú Yên. Khi xưa, nơi này người Chiêm gọi tên là Ayaru. Năm 1578, chúa Nguyễn Hoàng, cử Lương Văn Chánh đánh chiếm thành Hồ của Chiêm Thành, ở xã Hoà Định, huyện Tuy Hòa. Từ đó, chúa Nguyễn chiêu tập và đưa lưu dân từ Thanh-Nghệ, Thuận-Quảng vào đây để khẩn hoang lập ấp và lập nghiệp. Vùng đất Aryaru đổi tên là Phú Yên. Năm 1976, Phú Yên và Khánh Hoà sáp nhập thành tỉnh Phú Khánh. Ngày 1-7-1989, tỉnh Phú Yên được tái lập lại cho đến ngày nay.
Nhớ công đức vua Lê Thánh Tông, dân Phú Yên đã lập đền thờ ngài ở thôn Long Uyên, huyện Tuy An, với câu đối:
"Giang san khai thác hà niên, phụ lão tương truyền Hồng Đức sự.
Trở đậu hình hương thử địa, thanh linh trường đối Thạch Bi cao".
Nghĩa: Khai sáng sông núi, bô lão thiết tha thời Hồng Đức,
Cung kính dâng hương, đất linh huyền diệu Đá Bia cao.
Người Phú Yên gọi "nẫu" là tiếng chỉ "người ta", người nơi khác nghe lạ lẫm. Nhưng đã quen thì thấy thân thiện.
Phú Yên có nhiều chùa: Chùa Đá Trắng (Từ Quang) ở huyện Tuy An, ở trên triền đồi toàn đá trắng, được vua ban sắc tứ năm 1889, có Đại hồng chung từ kinh đô Phú Xuân đưa vào năm 1915. Chùa Bảo Tịnh ở thành phố Tuy Hoà...
Đập Đồng Cam là công trình ngăn nước dòng sông Ba (sông Đà Rằng), khởi công năm 1923, do các kỹ sư Pháp là: Fargues, Machefaux và Carrez thực hiện dự án. Đập hoàn thành năm1932. Đập Đồng Cam dài 680m, bề mặt đập rộng 2m. Nước đập chảy vào 2 mương chính, mương phía nam chảy về quận Hiếu Xương (nam Tuy Hòa) dài 36 km, kinh phí 1.107.560 đồng, mương phía bắc chảy về quận Tuy Hoà dài 32 km, kinh phí 1.384.000 đồng. Xây đập kinh phí 663.000 đồng, cộng lại là 3.650.000 đồng tiền Đông Dương. Lễ khánh thành đập ngày 7-9-1932, với sự hiện diện Toàn quyền Đông Dương là Pierre Pasquier. Đập Đồng Cam ngoài việc cung cấp nước cho ruộng đồng, còn là thắng cảnh, nước đổ ào ào, bên bờ cỏ cây tươi tốt, phong cảnh nên thơ.
Văn hoá và Lễ hội: Phú Yên có thể loại hát bài chòi, đó là loại hát dân gian phổ biến ở Phú Yên. Hội thơ đêm nguyên tiêu (rằm tháng giêng) hàng năm tổ chức tại Sân tháp Nhạn ở thành phố Tuy Hòa, điều ấy nói lên dân Phú Yên thích thú về thơ phú.
Mộ và đền chí sĩ Lê Thành Phương ở huyện Tuy An, ông chiêu mộ Nghĩa quân chống Pháp năm 1885, chiếm được Phú Yên; sau đó, ông bị Pháp bắt hành quyết năm 1887; lễ hội được tổ chức tại đền vào ngày ông mất là 28 tháng Giêng âm lịch (20-2-1887-DL), ở xã An Hiệp, Tuy An. Mộ và đền Lương Văn Chánh, ông đã hướng dẫn dân chúng khai khẩn vùng đất Phú Yên, sau khi ông mất dân chúng tôn ông là tiền hiền tỉnh Phú Yên; lễ hội tổ chức tại đền ngày ông mất là 19-9 âm lịch (1611-DL), ở xã Hòa Trị, Tuy Hòa.
Vịnh Vũng Rô, ở phía nam thành phố Tuy Hoà 25 km, thuộc xã Hòa Xuân Nam, bên cạnh Đèo Cả. Vũng Rô có diện tích 16,4 km2 mặt nước. Được 3 dãy núi cao che chắn: Bắc có Đá Bia, tây có Đèo Cả và đông có Hòn Bà, nên vịnh luôn êm ả, tàu thuỷ có thể ra vào trọng tải 10.000 tấn. Vịnh có một số bãi đẹp: Bãi Chùa, Bãi Bàng, Bãi Lau, có thể tắm và bơi lội. Phía Nam vịnh có đảo Hòn Nưa cao 105 m, như một pháo đảo, trên đảo có ngọn đèn biển lớn. Gần Vũng Rô có hòn Vọng Phu bồng con, như đứng mòn mỏi trông chồng. Vũng Rô ngày nay đang xây dựng nhà máy lọc dầu.
Phong cảnh Phú Yên: Tháp Nhạn trên đỉnh Núi Nhạn trông cao chất ngất, núi ở phía tây nam thành phố Tuy Hòa. Chân núi phía nam là bờ sông Đà Rằng, phía tây kề quốc lộ 1 đi Bắc Nam. Tháp xây khoảng thế kỷ 11, tiêu biểu nghệ thuật kiến trúc người Chăm khi xưa. Tháp cao 25m, chân tháp mỗi cạnh rộng 11m. Dưới chân núi phía tây nam có tảng đá phẳng phiu, cao 5m, rộng 5m, khắc chữ Phạn cổ. Núi Nhạn, sông Đà là biểu tượng vùng đất thơ mộng Phú Yên. Ghềnh Đá Đĩa thuộc huyện Tuy An, những tảng đá cấu trúc lạ lẫm, hình ngũ giác xếp đều đặn trên một vùng rộng lớn. Nhìn từ xa, trông giống như chồng bát đĩa đồ sộ. Phía trước ghềnh là một hang sâu và rộng chứa cả trăm người. Cầu Đà Rằng có 21 nhịp dài tít tắp, trên dòng sông lưa thưa những chiếc buồm trắng nhấp nhô trông thơ mộng. Thắng cảnh và di tích Phú Yên còn có: Mũi Điện, Núi Đá Bia. Đầm Ô Loan. Vịnh Xuân Đài... Đặc sản Phú Yên có rất nhiều, đặc biệt sò huyết đầm Ô Loan, bắt sò tươi đem nướng, hương vị ngọt ngào, ăn vào bồi bổ máu huyết rất tốt.
Sông Đà, núi Nhạn Phú Yên
Biển, đồng rộng rãi ngẫm nghiền nhớ nhung
Cảm tác: Non nước Phú Yên
Phú yên, có Núi Nhạn, Sông Đà
Giáp giới phía nam, tỉnh Khánh Hoà
Tây cận núi rừng, rừng rậm rạp
Đông liền bờ biển, biển bao la
.
Phú Yên, kinh tế nhịp nhàng tăng
Dân dã cần cù, dẫu nhọc nhằn
Biển cả, lờn vờn tôm, cá, mực
Rừng sâu, chen chúc gỗ, tre măng
.
Đập Đồng Cam, ngăn nước Đà Rằng
Dẫn thủy nhập điền, nông phẩm tăng
Ngào ngạt lúa vàng, hương phản phất
Bồng bềnh buồm trắng, sóng lăn tăn
.
Phú Yên sông suối, chảy quanh co
Đồng ruộng thênh thang, đủ lúa ngô
Đình miếu chùa chiền, hình cổ kính
Ô Loan sò huyết, vị thơm tho
.
Vũng Rô bao bọc, bởi Hòn Bà
Gần núi Vọng Phu, đứng xót xa
Nhộn nhịp tàu bè, tung toé nước
Chập chờn đàn bướm, quẩn quanh hoa
.
Biển Đông dào dạt ở phương đông
Vòi vọi Đá Bia thăm thẳm trông
Núi Nhạn, Sông Đà, nhung nhớ dạ
Phú Yên non nước, vấn vương lòng
Nguyễn Lộc Yên
Gửi ý kiến của bạn