TỈNH QUẢNG NGÃI
Tỉnh Quảng Ngãi, diện tích 5.150 km vuông. Dân số năm 2011 là 1.290.000 người, mật độ 237 người/km vuông. Sắc dân: Kinh, Hrê, Cor, Xơ Đăng... Gồm có: Thành phố Quảng Ngãi và 13 huyện: Bình Sơn, Trà Bồng, Sơn Tịnh, Sơn Tây, Sơn Hà, Tư Nghĩa, Nghĩa Hành, Minh Long, Mộ Đức, Đức Phổ, Tây Trà, Ba Tơ và huyện đảo Lý Sơn. Tỉnh lỵ ở thành phố Quảng Ngãi. Quảng Ngãi phía bắc giáp Quảng Nam, tây giáp Kon Tum, nam giáp Bình Định, đông giáp biển Đông (135 km). Nhiệt độ mùa nóng lên tới 41 độ C, mùa lạnh, đôi khi chỉ có 12 độ C. Nhiệt độ trung bình 26 độ C.
Lịch sử tỉnh Quảng Ngãi: Tháng 8-1470, quân Chiêm đánh Hoá Châu, Kinh lược sứ Phạm Văn Hiển cấp báo triều đình. Năm 1471, Lê Thánh Tông thân chinh tiến quân vào Thuận Hóa, chiếm được Chiêm đô Trà Bàn, vua cho tổ chức lại việc cai trị các châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa. Năm1558, Nguyễn Hoàng vào trấn phủ Thuận Hoá, năm 1570 kiêm lãnh trấn Quảng Nam. Năm 1802, vua Gia Long đặt tên là Quảng Nghĩa dinh, Năm 1832, Minh Mạng đổi trấn làm tỉnh, trấn Quảng Nghĩa đổi thành tỉnh Quảng Nghĩa (Ngãi). Tháng 9-1975, tỉnh Nghĩa Bình được hình thành, sáp nhập 2 tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định. Tháng 7-1989, tỉnh Nghĩa Bình tách trở lại thành 2 tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định như cũ.
Các sông chính chảy qua Quảng Ngãi: Sông Trà Khúc, sông Trà Bồng, Sông Vệ. Địa hình Quảng Ngãi có thể chia ra 4 vùng: Vùng núi, vùng giáp núi, vùng đồng bằng và vùng hải đảo. TP Quảng Ngãi xây dựng ven sông Trà Khúc, ngày trước có nhiều bánh xe nước rất lớn, để cung cấp nước cho ruộng lúa và đất trồng mía, các hình ảnh của bánh xe nước, trông rất ngoạn mục.
Tỉnh Quảng Ngãi, nông, lâm, ngư nghiệp đều có đầy đủ, giao thông thuận tiện, kinh tế phát triển. Đặc sản của Quảng Ngãi là kẹo mạch nha ngọt ngào, đường cát trắng tinh. Những rừng quế rộng bao la, phản phất hương thơm phưng phức.
Lễ cúng Cá Ông hay lễ nghinh Ông, của đồng bào Quảng Ngãi giống như đồng bào VN sinh sống ven biển, nghi lễ được tổ chức hàng năm vào đầu mùa đánh cá ở nơi miếu thờ cá Ông và trên biển. Đối với ngư dân, họ tin tưởng Cá Ông là sinh vật thiêng liêng, sẽ cứu giúp người khi bị tai nạn trên biển cả. Phần lễ tổ chức trang nghiêm và sau đấy hát bội thật linh đình.
Di tích Sa Huỳnh ở huyện Phổ Đức, gần bờ biển Sa Huỳnh. Các nhà khảo cổ khai quật các khu mộ táng, đã xác nhận có người sống nơi đây vào thời kỳ đồ sắt, trên 2000 năm về trước.
Quảng Ngãi có nhiều chùa, đặc biệt chùa Hang ở xã Lý Hải, ở phía đông bắc đảo Lý Sơn, xây vào đời Lê Kính Tông, chùa ở trong một hang núi, sát biển, đến chùa chỉ có độc đạo, lên cao dần rồi bước xuống 40 cấp mới vào được trong chùa, chùa rộng có thể chứa cả 100 người, các bệ đá thiên nhiên làm bàn thờ trông thiêng liêng.
Thành cổ Châu Sa của người Chăm, ở huyện Sơn Tịnh, xây thế kỷ thứ 9, có Cổ Lũy nhô ra biển, cao 25m để che chắn gió biển. Ngày nay đã điêu tàn, thật ngậm ngùi, chỉ vì kẻ lèo lái quốc gia thiếu sáng suốt, mà đất nước bị mất vĩnh viễn. Bãi biển Mỹ Khê ở thôn Cổ Lũy, thuộc huyện Sơn Tịnh; bãi biển thoai thoải, cát mịn màng, rộng thênh thang, phía sau là rặng phi lao bạt ngàn.
Núi Thiên Ấn thuộc huyện Sơn Tịnh là thắng cảnh ở Quảng Ngãi, núi ở phía tả ngạn sông Trà Khúc, nên các cụ gọi là: “Thiên Ấn Niêm Hà”. Năm 1830, vua Minh Mệnh cho liệt núi Thiên Ấn vào hàng danh sơn. Núi cao khoảng 100m, bốn phía sườn có hình thang cân, núi đứng sừng sững giữa thiên nhiên bao la, giống như một quả ấn, trời đem trao tặng cho xứ này.
Chùa Thiên Ấn ở trên đỉnh núi Thiên Ấn, do Thiền sư Pháp Hoa xây dựng vào thế kỷ 17, thời Hậu Lê. Được chúa Nguyễn Phúc Chu ban biển ngạch vào năm 1716, đặt tên “Thiên Ấn tự”. Chùa có giếng nước cổ xưa. Tương truyền vị Hòa thượng khi dựng chùa xong, vì thiếu nước, nên tự đào vất vả 20 năm mới hoàn tất, giếng đào xong thì nhà sư viên tịch. Chùa được trùng tu vào các năm: 1959 và 1992. Phong cảnh nơi đây núi non hùng vĩ, bên dòng sông Trà Khúc uốn lượn mềm mại,
Cảng Dung Quất, là một cảng lớn có độ sâu lý tưởng, phía nam khoảng 10 km là thành phố Vạn Tường đang phát triển nhịp nhàng theo đà phát triển khu dầu khí Dung Quốc. Dung Quốc là một khu công nhiệp dầu khí lớn của VN. Cảng Dung Quất với nhịp độ phát triển mạnh, hy vọng sẽ là nơi kỹ nghệ sầm uất của Việt Nam.
Nước non Quảng Ngãi nhìn trông
Thênh thang biển cả, núi sông mỹ miều
.
Cảm tác: Non nước Quảng Ngãi
Phía đông Quảng Ngãi, biển thênh thang
Tây giáp Kon Tum núi ngút ngàn
Kề cận Quảng Nam, nơi hướng bắc
Láng giềng Bình Định, sát ranh nam
.
Nông, lâm, thuỷ sản, có nhiều nơi
Kinh tế mở mang, đã phục hồi
Thiên Ấn tốt tươi, đồ sộ đứng
Sông Trà mềm mại, lững lờ trôi
.
Chùa Hang Quảng Ngãi, núi cheo leo
Dò dẫm bước chân mỗi lúc trèo.
Hang động thiêng liêng, le lói sáng
Ánh trăng vằng vặc, lửng lơ treo
.
Châu Sa thành cổ, dáng điêu tàn
Ngày tháng xa xưa, tăm tiếng vang
Cổ Luỹ chắn che, làn gió biển
Chiêm thành biền biệt, cõi trần gian!
.
Mỹ Khê bãi biển, rộng mông mênh
Gió nhẹ, nước trong sóng dập dềnh
Thoai thoải, mịn màng, vùng cát trắng
Mượt mà, réo rắt, dãy thông xanh
.
Đất đai Quảng Ngãi, biết bao nhiêu!
Biển đẹp, núi sông cảnh mỹ miều!
Đường cát ngọt ngào, trông óng ánh!
Đồng bào khẳng khái, thiết tha nhiều!
Nguyễn Lộc Yên
Tỉnh Quảng Ngãi, diện tích 5.150 km vuông. Dân số năm 2011 là 1.290.000 người, mật độ 237 người/km vuông. Sắc dân: Kinh, Hrê, Cor, Xơ Đăng... Gồm có: Thành phố Quảng Ngãi và 13 huyện: Bình Sơn, Trà Bồng, Sơn Tịnh, Sơn Tây, Sơn Hà, Tư Nghĩa, Nghĩa Hành, Minh Long, Mộ Đức, Đức Phổ, Tây Trà, Ba Tơ và huyện đảo Lý Sơn. Tỉnh lỵ ở thành phố Quảng Ngãi. Quảng Ngãi phía bắc giáp Quảng Nam, tây giáp Kon Tum, nam giáp Bình Định, đông giáp biển Đông (135 km). Nhiệt độ mùa nóng lên tới 41 độ C, mùa lạnh, đôi khi chỉ có 12 độ C. Nhiệt độ trung bình 26 độ C.
Lịch sử tỉnh Quảng Ngãi: Tháng 8-1470, quân Chiêm đánh Hoá Châu, Kinh lược sứ Phạm Văn Hiển cấp báo triều đình. Năm 1471, Lê Thánh Tông thân chinh tiến quân vào Thuận Hóa, chiếm được Chiêm đô Trà Bàn, vua cho tổ chức lại việc cai trị các châu Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa. Năm1558, Nguyễn Hoàng vào trấn phủ Thuận Hoá, năm 1570 kiêm lãnh trấn Quảng Nam. Năm 1802, vua Gia Long đặt tên là Quảng Nghĩa dinh, Năm 1832, Minh Mạng đổi trấn làm tỉnh, trấn Quảng Nghĩa đổi thành tỉnh Quảng Nghĩa (Ngãi). Tháng 9-1975, tỉnh Nghĩa Bình được hình thành, sáp nhập 2 tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định. Tháng 7-1989, tỉnh Nghĩa Bình tách trở lại thành 2 tỉnh Quảng Ngãi và Bình Định như cũ.
Các sông chính chảy qua Quảng Ngãi: Sông Trà Khúc, sông Trà Bồng, Sông Vệ. Địa hình Quảng Ngãi có thể chia ra 4 vùng: Vùng núi, vùng giáp núi, vùng đồng bằng và vùng hải đảo. TP Quảng Ngãi xây dựng ven sông Trà Khúc, ngày trước có nhiều bánh xe nước rất lớn, để cung cấp nước cho ruộng lúa và đất trồng mía, các hình ảnh của bánh xe nước, trông rất ngoạn mục.
Tỉnh Quảng Ngãi, nông, lâm, ngư nghiệp đều có đầy đủ, giao thông thuận tiện, kinh tế phát triển. Đặc sản của Quảng Ngãi là kẹo mạch nha ngọt ngào, đường cát trắng tinh. Những rừng quế rộng bao la, phản phất hương thơm phưng phức.
Lễ cúng Cá Ông hay lễ nghinh Ông, của đồng bào Quảng Ngãi giống như đồng bào VN sinh sống ven biển, nghi lễ được tổ chức hàng năm vào đầu mùa đánh cá ở nơi miếu thờ cá Ông và trên biển. Đối với ngư dân, họ tin tưởng Cá Ông là sinh vật thiêng liêng, sẽ cứu giúp người khi bị tai nạn trên biển cả. Phần lễ tổ chức trang nghiêm và sau đấy hát bội thật linh đình.
Di tích Sa Huỳnh ở huyện Phổ Đức, gần bờ biển Sa Huỳnh. Các nhà khảo cổ khai quật các khu mộ táng, đã xác nhận có người sống nơi đây vào thời kỳ đồ sắt, trên 2000 năm về trước.
Quảng Ngãi có nhiều chùa, đặc biệt chùa Hang ở xã Lý Hải, ở phía đông bắc đảo Lý Sơn, xây vào đời Lê Kính Tông, chùa ở trong một hang núi, sát biển, đến chùa chỉ có độc đạo, lên cao dần rồi bước xuống 40 cấp mới vào được trong chùa, chùa rộng có thể chứa cả 100 người, các bệ đá thiên nhiên làm bàn thờ trông thiêng liêng.
Thành cổ Châu Sa của người Chăm, ở huyện Sơn Tịnh, xây thế kỷ thứ 9, có Cổ Lũy nhô ra biển, cao 25m để che chắn gió biển. Ngày nay đã điêu tàn, thật ngậm ngùi, chỉ vì kẻ lèo lái quốc gia thiếu sáng suốt, mà đất nước bị mất vĩnh viễn. Bãi biển Mỹ Khê ở thôn Cổ Lũy, thuộc huyện Sơn Tịnh; bãi biển thoai thoải, cát mịn màng, rộng thênh thang, phía sau là rặng phi lao bạt ngàn.
Núi Thiên Ấn thuộc huyện Sơn Tịnh là thắng cảnh ở Quảng Ngãi, núi ở phía tả ngạn sông Trà Khúc, nên các cụ gọi là: “Thiên Ấn Niêm Hà”. Năm 1830, vua Minh Mệnh cho liệt núi Thiên Ấn vào hàng danh sơn. Núi cao khoảng 100m, bốn phía sườn có hình thang cân, núi đứng sừng sững giữa thiên nhiên bao la, giống như một quả ấn, trời đem trao tặng cho xứ này.
Chùa Thiên Ấn ở trên đỉnh núi Thiên Ấn, do Thiền sư Pháp Hoa xây dựng vào thế kỷ 17, thời Hậu Lê. Được chúa Nguyễn Phúc Chu ban biển ngạch vào năm 1716, đặt tên “Thiên Ấn tự”. Chùa có giếng nước cổ xưa. Tương truyền vị Hòa thượng khi dựng chùa xong, vì thiếu nước, nên tự đào vất vả 20 năm mới hoàn tất, giếng đào xong thì nhà sư viên tịch. Chùa được trùng tu vào các năm: 1959 và 1992. Phong cảnh nơi đây núi non hùng vĩ, bên dòng sông Trà Khúc uốn lượn mềm mại,
Cảng Dung Quất, là một cảng lớn có độ sâu lý tưởng, phía nam khoảng 10 km là thành phố Vạn Tường đang phát triển nhịp nhàng theo đà phát triển khu dầu khí Dung Quốc. Dung Quốc là một khu công nhiệp dầu khí lớn của VN. Cảng Dung Quất với nhịp độ phát triển mạnh, hy vọng sẽ là nơi kỹ nghệ sầm uất của Việt Nam.
Nước non Quảng Ngãi nhìn trông
Thênh thang biển cả, núi sông mỹ miều
.
Cảm tác: Non nước Quảng Ngãi
Phía đông Quảng Ngãi, biển thênh thang
Tây giáp Kon Tum núi ngút ngàn
Kề cận Quảng Nam, nơi hướng bắc
Láng giềng Bình Định, sát ranh nam
.
Nông, lâm, thuỷ sản, có nhiều nơi
Kinh tế mở mang, đã phục hồi
Thiên Ấn tốt tươi, đồ sộ đứng
Sông Trà mềm mại, lững lờ trôi
.
Chùa Hang Quảng Ngãi, núi cheo leo
Dò dẫm bước chân mỗi lúc trèo.
Hang động thiêng liêng, le lói sáng
Ánh trăng vằng vặc, lửng lơ treo
.
Châu Sa thành cổ, dáng điêu tàn
Ngày tháng xa xưa, tăm tiếng vang
Cổ Luỹ chắn che, làn gió biển
Chiêm thành biền biệt, cõi trần gian!
.
Mỹ Khê bãi biển, rộng mông mênh
Gió nhẹ, nước trong sóng dập dềnh
Thoai thoải, mịn màng, vùng cát trắng
Mượt mà, réo rắt, dãy thông xanh
.
Đất đai Quảng Ngãi, biết bao nhiêu!
Biển đẹp, núi sông cảnh mỹ miều!
Đường cát ngọt ngào, trông óng ánh!
Đồng bào khẳng khái, thiết tha nhiều!
Nguyễn Lộc Yên
Gửi ý kiến của bạn