Nguyễn Lộc Yên
LÝ NHÂN TÔNG: LÝ CÀN ĐỨC
(1066 - 1128)
Ông là con của Lý Thánh Tông và bà Lê Thị Ỷ Lan. Nối ngôi lúc 6 tuổi (1072), nhờ quần thần văn võ đều trung trực và có tài, nên triều chính vững vàng và đất nước phát triển rực rỡ.
Chuyện kể: Nguyên phi Ỷ Lan, sanh được một người con trai, Thượng Dương Hoàng hậu sợ uy quyền sẽ bị lung lay, nên bắt người con trai ấy, rồi nói “Nguyên phi sinh quái thai”, lại bắt Nguyên phi giam vào lãnh cung. Người con ấy là thái tử Càn Đức, khi được 6 tuổi thì Thánh Tông băng hà, thái tử lên ngôi đế hiệu Lý Nhân Tông. Nguyên phi được tôn Linh Nhân Hoàng thái hậu. Hoàng thái hậu trả thù, bắt giam Thượng Dương Hoàng hậu và chôn sống 72 người cung nữ đã hãm hại bà khi xưa.
Đời vua Lý Nhân Tông, việc triều chính sửa sang đáng kể:
a- Năm 1075, bắt đầu tổ chức kỳ thi tam trường (thi 3 bậc khác nhau để tuyển nhân tài giúp nước). Năm 1086, tuyển người vào hàn lâm viện, Mạc Điển Tích được bổ vào hàn lâm viện học sĩ.
b- Năm 1089, quan chế được định thành những cấp bậc:
- Quan văn: Thái sư, Thái phó, Thái úy, Thiếu sư, Thiếu úy.
- Quan võ: Đô thống, Nguyên súy, Tổng quản khu mật sứ, Khu mật tả hữu sứ, Kim ngô thượng tướng...
Việc phạt Tống: Nhà Tống có Vương An Thạch, là một chính trị gia mưu chước, muốn mở rộng về phương Nam, nên tâu vua Tống: “Đại Việt vừa đánh Chiêm Thành, nên sức cùng lực kiệt, ta có thể cử quân Ung châu sang chiếm Đại Việt”. Tiêu Chú ở Ung Châu cũng đang dòm ngó Đại Việt, nhưng còn lo ngại, đến khi Thánh Tông băng hà, Nhân Tông còn trẻ tuổi, là cơ hội Tống xâm lược. Vua Tống cử Binh bộ thị lang Thẩm Khởi điểm binh đánh Đại Việt. Sau đấy Lưu Di thay thế, cấm người Tàu buôn bán với người Việt, để khỏi lộ việc Nam chinh. Còn dụ dỗ các tù trưởng của nhà Lý theo Tống như: Nùng Thiện Mỹ ở Bắc Cạn, Lưu Kỷ ở Quảng Nguyên... Những việc này, tình báo của Đại Việt biết rất rõ, nên Lý triều yêu cầu Tống triều giao lại Nùng Thiện Mỹ và 700 thuộc hạ để trị tội, Tống không đồng ý, còn chiêu dụ Nùng Trí Hội (con Trí Cao) ở châu Quy Hóa.
Lý triều bàn bạc, không thể hòa hoãn với Tống được nữa, ra binh đánh Tống trước có lợi hơn, trong lúc đó Đại Việt chưa tới 10 vạn quân, chia làm hai ngả. Lý Thường Kiệt đem quân đánh Quảng Đông (Khâm Châu và Liêm Châu), Tôn Đản đem quân đánh Ung Châu (Nam Ninh, Quảng Tây). Quân Tống bị tấn công bất ngờ như vũ bão, nên bị đại bại và nhiều thành trì bị mất. Đến tháng giêng năm 1076, quân Đại Việt vây chặt thành Ung Châu, tướng Tống là Tô Đam cố thủ chờ viện binh. Lưu Di ở Quế Châu cử Trương Thủ Tiết đem quân cứu viện, bị Lý Thường Kiệt chận đánh tan tác. Đến ngày 1-3-1076, quân Đại Việt hạ được thành Ung Châu, Tô Đam và 36 thân nhân tự sát. Kết quả quân Đại Việt phạt Tống, đã tiêu diệt khoảng 7 vạn người và khi rút quân về nước, bắt trên 200 người đem về Đại Việt.
Quân Tống phục thù: Quách Quỳ làm chủ tướng, Triệu Tiết làm phó, hợp với quân Chiêm Thành và Chân Lạp, chia làm nhiều đường, tiến đánh nước ta. Trận đụng độ ác liệt giữa quân Tống và Đại Việt, bên bờ sông Như Nguyệt (sông Cầu, thuộc tỉnh Bắc Ninh), trận này quân Tống bị tử trận trên 1000 người. Quân Tống dùng máy bắn đá qua như mưa, nên chiến thuyền của ta bị hư hại và quân lính tử thương rất nhiều. Lý Thường Kiệt làm 4 câu thơ khích lệ tinh thần binh sĩ, còn chia quân chận đánh quân Chiêm và Chân Lạp. Đại Việt dù thắng, nhưng xét thấy chiến tranh lâu dài không lợi, nên giảng hòa với Tống.
Việc bình Chiêm: Năm 1103 (Quí mùi), Lý Giác làm phản ở Diễn Châu (Nghệ An), Lý Thường Kiệt đem quân đi đánh dẹp, Lý Giác chạy qua Chiêm Thành, còn đề nghị Chiêm vương là Chế Ma Na, lấy lại 3 châu: Địa Lý, Ma Linh và Bố Chính, do Chế Củ nhường cho Lý Thánh Tông năm 1069 (Kỷ dậu). Lão tướng Lý Thường Kiệt (83 tuổi), xuất chinh lần nữa. Quân Chiêm bị đánh tan tác, Chiêm Thành xin Lý triều được trở lại tình trạng bang giao như cũ. Cũng từ đấy các nước ở phía Nam nước ta xin thần phục Đại Việt và triều cống đúng kỳ hạn.
Cảm niệm: Lý Nhân Tông
Sáu tuổi lên ngôi, luống ngại ngùng
Trong ngoài lo liệu, những tôi trung
Săm soi chính sự, không ngưng nghỉ
Phạt Tống, bình Chiêm, tiếng lẫy lừng
Nguyễn Lộc Yên
LÝ NHÂN TÔNG: LÝ CÀN ĐỨC
(1066 - 1128)
Ông là con của Lý Thánh Tông và bà Lê Thị Ỷ Lan. Nối ngôi lúc 6 tuổi (1072), nhờ quần thần văn võ đều trung trực và có tài, nên triều chính vững vàng và đất nước phát triển rực rỡ.
Chuyện kể: Nguyên phi Ỷ Lan, sanh được một người con trai, Thượng Dương Hoàng hậu sợ uy quyền sẽ bị lung lay, nên bắt người con trai ấy, rồi nói “Nguyên phi sinh quái thai”, lại bắt Nguyên phi giam vào lãnh cung. Người con ấy là thái tử Càn Đức, khi được 6 tuổi thì Thánh Tông băng hà, thái tử lên ngôi đế hiệu Lý Nhân Tông. Nguyên phi được tôn Linh Nhân Hoàng thái hậu. Hoàng thái hậu trả thù, bắt giam Thượng Dương Hoàng hậu và chôn sống 72 người cung nữ đã hãm hại bà khi xưa.
Đời vua Lý Nhân Tông, việc triều chính sửa sang đáng kể:
a- Năm 1075, bắt đầu tổ chức kỳ thi tam trường (thi 3 bậc khác nhau để tuyển nhân tài giúp nước). Năm 1086, tuyển người vào hàn lâm viện, Mạc Điển Tích được bổ vào hàn lâm viện học sĩ.
b- Năm 1089, quan chế được định thành những cấp bậc:
- Quan văn: Thái sư, Thái phó, Thái úy, Thiếu sư, Thiếu úy.
- Quan võ: Đô thống, Nguyên súy, Tổng quản khu mật sứ, Khu mật tả hữu sứ, Kim ngô thượng tướng...
Việc phạt Tống: Nhà Tống có Vương An Thạch, là một chính trị gia mưu chước, muốn mở rộng về phương Nam, nên tâu vua Tống: “Đại Việt vừa đánh Chiêm Thành, nên sức cùng lực kiệt, ta có thể cử quân Ung châu sang chiếm Đại Việt”. Tiêu Chú ở Ung Châu cũng đang dòm ngó Đại Việt, nhưng còn lo ngại, đến khi Thánh Tông băng hà, Nhân Tông còn trẻ tuổi, là cơ hội Tống xâm lược. Vua Tống cử Binh bộ thị lang Thẩm Khởi điểm binh đánh Đại Việt. Sau đấy Lưu Di thay thế, cấm người Tàu buôn bán với người Việt, để khỏi lộ việc Nam chinh. Còn dụ dỗ các tù trưởng của nhà Lý theo Tống như: Nùng Thiện Mỹ ở Bắc Cạn, Lưu Kỷ ở Quảng Nguyên... Những việc này, tình báo của Đại Việt biết rất rõ, nên Lý triều yêu cầu Tống triều giao lại Nùng Thiện Mỹ và 700 thuộc hạ để trị tội, Tống không đồng ý, còn chiêu dụ Nùng Trí Hội (con Trí Cao) ở châu Quy Hóa.
Lý triều bàn bạc, không thể hòa hoãn với Tống được nữa, ra binh đánh Tống trước có lợi hơn, trong lúc đó Đại Việt chưa tới 10 vạn quân, chia làm hai ngả. Lý Thường Kiệt đem quân đánh Quảng Đông (Khâm Châu và Liêm Châu), Tôn Đản đem quân đánh Ung Châu (Nam Ninh, Quảng Tây). Quân Tống bị tấn công bất ngờ như vũ bão, nên bị đại bại và nhiều thành trì bị mất. Đến tháng giêng năm 1076, quân Đại Việt vây chặt thành Ung Châu, tướng Tống là Tô Đam cố thủ chờ viện binh. Lưu Di ở Quế Châu cử Trương Thủ Tiết đem quân cứu viện, bị Lý Thường Kiệt chận đánh tan tác. Đến ngày 1-3-1076, quân Đại Việt hạ được thành Ung Châu, Tô Đam và 36 thân nhân tự sát. Kết quả quân Đại Việt phạt Tống, đã tiêu diệt khoảng 7 vạn người và khi rút quân về nước, bắt trên 200 người đem về Đại Việt.
Quân Tống phục thù: Quách Quỳ làm chủ tướng, Triệu Tiết làm phó, hợp với quân Chiêm Thành và Chân Lạp, chia làm nhiều đường, tiến đánh nước ta. Trận đụng độ ác liệt giữa quân Tống và Đại Việt, bên bờ sông Như Nguyệt (sông Cầu, thuộc tỉnh Bắc Ninh), trận này quân Tống bị tử trận trên 1000 người. Quân Tống dùng máy bắn đá qua như mưa, nên chiến thuyền của ta bị hư hại và quân lính tử thương rất nhiều. Lý Thường Kiệt làm 4 câu thơ khích lệ tinh thần binh sĩ, còn chia quân chận đánh quân Chiêm và Chân Lạp. Đại Việt dù thắng, nhưng xét thấy chiến tranh lâu dài không lợi, nên giảng hòa với Tống.
Việc bình Chiêm: Năm 1103 (Quí mùi), Lý Giác làm phản ở Diễn Châu (Nghệ An), Lý Thường Kiệt đem quân đi đánh dẹp, Lý Giác chạy qua Chiêm Thành, còn đề nghị Chiêm vương là Chế Ma Na, lấy lại 3 châu: Địa Lý, Ma Linh và Bố Chính, do Chế Củ nhường cho Lý Thánh Tông năm 1069 (Kỷ dậu). Lão tướng Lý Thường Kiệt (83 tuổi), xuất chinh lần nữa. Quân Chiêm bị đánh tan tác, Chiêm Thành xin Lý triều được trở lại tình trạng bang giao như cũ. Cũng từ đấy các nước ở phía Nam nước ta xin thần phục Đại Việt và triều cống đúng kỳ hạn.
Cảm niệm: Lý Nhân Tông
Sáu tuổi lên ngôi, luống ngại ngùng
Trong ngoài lo liệu, những tôi trung
Săm soi chính sự, không ngưng nghỉ
Phạt Tống, bình Chiêm, tiếng lẫy lừng
Nguyễn Lộc Yên
Gửi ý kiến của bạn