LÝ THÁNH TÔNG: LÝ NHẬT TÔN
(1023 - 1072)
Vua Lý Thánh Tông tên là Lý Nhật Tôn. Lúc còn trẻ chưa làm vua, Nhật Tôn ở cung Long Đức bên ngoài thành, nên Nhật Tôn gần gũi dân, hiểu rõ đời sống cơ cực của dân gian, nên khi làm vua, rất thương dân. Niên hiệu lần đầu là Thiên Thụy Thái Bình (1054-1058), quốc hiệu là Đại Việt, mà trước đấy cả 100 năm là Đại Cồ Việt. Nhà vua thông thạo văn võ, thông minh xuất chúng, yêu thích thiên nhiên, ruộng đồng. Vào mùa xuân, mùa hè vua về phủ Thiên Đức xem dân gặt lúa, đánh cá.
Khi đêm, vào mùa đông đang ngồi bên lò sưởi ấm áp, vua than: “Ta ở nơi thâm cung có áo lông cừu, sưởi lò than mà còn cảm thấy lạnh, huống chi tù nhân ăn không no, mà còn bị xiềng xích, ta ngẫm nghĩ đau lòng quá!”, nói rồi, vua sai quân lính đem chăn mền cho tù nhân. Có một lần vua ngự ở điện Thiên Khánh xử tội phạm nhân, con gái của vua là công chúa Động Thiên đứng hầu bên cạnh, khi biết phạm nhân bị tội, chỉ vì không hiểu luật, vua phán: “Ta thương dân chúng như thương con gái của ta, từ nay các tội nặng nhẹ phải dạy dỗ và khoan giảm”.
Năm 1056, ngài ban chiếu khuyên dân làm ruộng. Năm 1059, ngài cho chế triều phục, lập điện Thủy Tinh, điện Thiên Quang. Về quan chức thì có các chức: Phụ quốc Thái uý, Gián nghị đại phu, Tả hữu lang trung viên ngoại lang... Việc quân ngũ (theo Việt Nam sử lược), thì ngài định quân hiệu và chia ra làm tả hữu tiền hậu 4 bộ, hợp lại làm 100 đội, mỗi đội có lính kỵ và lính bắn đá, còn phiên binh thì lập ra đội riêng. Triều đại Lý Thánh Tông lúc bấy giờ rất cường thịnh và vẻ vang. Năm 1068, Lý Thánh Tông cho sửa soạn chiến thuyền để chinh phạt Chiêm Thành, vì đã 3 năm không triều cống, mà còn gây rối ở biên giới của nước ta. Nhưng lần này hai bên giằng co khó thắng, vua cho đem quân trở về, đến châu Cự Liên (Hải Dương), nghe Lan Thái Phi ổn định đời sống nhân dân, dù bị lũ lụt trầm trọng, vua nghĩ mình đánh giặc, không bằng người đàn bà trị quốc, nên kéo quân trở lại đánh Chiêm Thành lần nữa.
Quân đội của nhà Lý có khoảng 5 vạn người, Lý Thường Kiệt làm tiên phong và em là Lý Thường Hiến giữ chức Tán kỵ Vũ úy. Tất cả có 200 chiến thuyền lớn, mỗi chiến thuyền chở 250 người và vũ khí cùng lương thực. Sau 7 ngày vượt trùng dương, quân nhà Lý đến Nghệ An, tiếp tục tiến quân 3 ngày nữa thì tới cửa Nam Giới thuộc Hà Tĩnh (phía nam núi Hồng Lĩnh) từ đây nhìn thấy hải phận của Chiêm Thành. Mấy ngày sau quân nhà Lý đến cửa Nhật Lệ, quân Chiêm đem chiến thuyền chận đánh. Trận này tướng của Đại Việt là Hoàng Kiệt cùng quân nhà Lý đánh tan quân Chiêm, tiến thẳng đến thành Phật Thệ, tướng Chiêm là Bố Bì Đà La đem quân Chiêm ra nghinh chiến, nhưng bị tử trận. Tướng Lý Thường Kiệt cho quân Đại Việt truy kích, gần một tháng săn đuổi, thì bắt được quốc vương Chiêm là Chế Củ (Rudravarman III) đang cùng vợ con dắt nhau chạy trốn. Năm 1069, đoàn quân nhà Lý xa giá hồi triều, về tới Thăng Long, thì Chế Củ xin dâng 3 châu: Bố chính, Ma Linh và Địa Lý, để chuộc tội và được thả về nước, những châu này nay thuộc Quảng Bình và Quảng Trị (Việt Nam Sử Lược, trang 126).
Trong nước, Lý Thánh Tông là nhà vua nhân đức, nên ít có giặc giã. Vua cho sáng lập Phật giáo Thảo Đường, lập tượng Chu Công, Khổng Tử và 72 vị tiên hiền để dân chúng noi gương.
Binh pháp đời Lý Thánh Tông vang danh thiên hạ, nên nhà Tống phải dụng tâm học cách tổ chức, huấn luuyện quân đội theo nước ta. Tháng giêng, năm Nhâm tý (1-2-1072), vua băng hà, trị vì được 17 năm, hưởng dương 49 tuổi.
Cảm mộ: Lý Thánh Tông
Lừng lẫy minh quân Lý Thánh Tông(*)
Tâm tư lo lắng nước hưng vong
Đất đai, văn hoá, săm soi giữ
Triều chính, đền đài lo lắng trông
Mùa gặt viếng thăm, khi nắng hạ
Tù nhân han hỏi, lúc trời đông
Thương dân, mong mỏi luôn no ấm
Trời đất chan hoà, rạng núi sông
____________
(*)- Lý Thánh Tông là một trong 3 vị vua lỗi lạc (minh quân) nhất của nước ta: Lý Thánh Tông, Trần Nhân Tông và Lê Thánh Tông.
Nguyễn Lộc Yên
(1023 - 1072)
Vua Lý Thánh Tông tên là Lý Nhật Tôn. Lúc còn trẻ chưa làm vua, Nhật Tôn ở cung Long Đức bên ngoài thành, nên Nhật Tôn gần gũi dân, hiểu rõ đời sống cơ cực của dân gian, nên khi làm vua, rất thương dân. Niên hiệu lần đầu là Thiên Thụy Thái Bình (1054-1058), quốc hiệu là Đại Việt, mà trước đấy cả 100 năm là Đại Cồ Việt. Nhà vua thông thạo văn võ, thông minh xuất chúng, yêu thích thiên nhiên, ruộng đồng. Vào mùa xuân, mùa hè vua về phủ Thiên Đức xem dân gặt lúa, đánh cá.
Khi đêm, vào mùa đông đang ngồi bên lò sưởi ấm áp, vua than: “Ta ở nơi thâm cung có áo lông cừu, sưởi lò than mà còn cảm thấy lạnh, huống chi tù nhân ăn không no, mà còn bị xiềng xích, ta ngẫm nghĩ đau lòng quá!”, nói rồi, vua sai quân lính đem chăn mền cho tù nhân. Có một lần vua ngự ở điện Thiên Khánh xử tội phạm nhân, con gái của vua là công chúa Động Thiên đứng hầu bên cạnh, khi biết phạm nhân bị tội, chỉ vì không hiểu luật, vua phán: “Ta thương dân chúng như thương con gái của ta, từ nay các tội nặng nhẹ phải dạy dỗ và khoan giảm”.
Năm 1056, ngài ban chiếu khuyên dân làm ruộng. Năm 1059, ngài cho chế triều phục, lập điện Thủy Tinh, điện Thiên Quang. Về quan chức thì có các chức: Phụ quốc Thái uý, Gián nghị đại phu, Tả hữu lang trung viên ngoại lang... Việc quân ngũ (theo Việt Nam sử lược), thì ngài định quân hiệu và chia ra làm tả hữu tiền hậu 4 bộ, hợp lại làm 100 đội, mỗi đội có lính kỵ và lính bắn đá, còn phiên binh thì lập ra đội riêng. Triều đại Lý Thánh Tông lúc bấy giờ rất cường thịnh và vẻ vang. Năm 1068, Lý Thánh Tông cho sửa soạn chiến thuyền để chinh phạt Chiêm Thành, vì đã 3 năm không triều cống, mà còn gây rối ở biên giới của nước ta. Nhưng lần này hai bên giằng co khó thắng, vua cho đem quân trở về, đến châu Cự Liên (Hải Dương), nghe Lan Thái Phi ổn định đời sống nhân dân, dù bị lũ lụt trầm trọng, vua nghĩ mình đánh giặc, không bằng người đàn bà trị quốc, nên kéo quân trở lại đánh Chiêm Thành lần nữa.
Quân đội của nhà Lý có khoảng 5 vạn người, Lý Thường Kiệt làm tiên phong và em là Lý Thường Hiến giữ chức Tán kỵ Vũ úy. Tất cả có 200 chiến thuyền lớn, mỗi chiến thuyền chở 250 người và vũ khí cùng lương thực. Sau 7 ngày vượt trùng dương, quân nhà Lý đến Nghệ An, tiếp tục tiến quân 3 ngày nữa thì tới cửa Nam Giới thuộc Hà Tĩnh (phía nam núi Hồng Lĩnh) từ đây nhìn thấy hải phận của Chiêm Thành. Mấy ngày sau quân nhà Lý đến cửa Nhật Lệ, quân Chiêm đem chiến thuyền chận đánh. Trận này tướng của Đại Việt là Hoàng Kiệt cùng quân nhà Lý đánh tan quân Chiêm, tiến thẳng đến thành Phật Thệ, tướng Chiêm là Bố Bì Đà La đem quân Chiêm ra nghinh chiến, nhưng bị tử trận. Tướng Lý Thường Kiệt cho quân Đại Việt truy kích, gần một tháng săn đuổi, thì bắt được quốc vương Chiêm là Chế Củ (Rudravarman III) đang cùng vợ con dắt nhau chạy trốn. Năm 1069, đoàn quân nhà Lý xa giá hồi triều, về tới Thăng Long, thì Chế Củ xin dâng 3 châu: Bố chính, Ma Linh và Địa Lý, để chuộc tội và được thả về nước, những châu này nay thuộc Quảng Bình và Quảng Trị (Việt Nam Sử Lược, trang 126).
Trong nước, Lý Thánh Tông là nhà vua nhân đức, nên ít có giặc giã. Vua cho sáng lập Phật giáo Thảo Đường, lập tượng Chu Công, Khổng Tử và 72 vị tiên hiền để dân chúng noi gương.
Binh pháp đời Lý Thánh Tông vang danh thiên hạ, nên nhà Tống phải dụng tâm học cách tổ chức, huấn luuyện quân đội theo nước ta. Tháng giêng, năm Nhâm tý (1-2-1072), vua băng hà, trị vì được 17 năm, hưởng dương 49 tuổi.
Cảm mộ: Lý Thánh Tông
Lừng lẫy minh quân Lý Thánh Tông(*)
Tâm tư lo lắng nước hưng vong
Đất đai, văn hoá, săm soi giữ
Triều chính, đền đài lo lắng trông
Mùa gặt viếng thăm, khi nắng hạ
Tù nhân han hỏi, lúc trời đông
Thương dân, mong mỏi luôn no ấm
Trời đất chan hoà, rạng núi sông
____________
(*)- Lý Thánh Tông là một trong 3 vị vua lỗi lạc (minh quân) nhất của nước ta: Lý Thánh Tông, Trần Nhân Tông và Lê Thánh Tông.
Nguyễn Lộc Yên
Gửi ý kiến của bạn