Hôm nay,  

Đánh Giá Cộng Đồng Việt trong Xã Hội Mỹ

27/08/201300:00:00(Xem: 11133)
Là người Việt Nam, ai không thấy hãnh diện khi trong cộng đồng mình sản sinh ra những nhân tài nổi tiếng, ai không thấy vui mừng khi sự thăng tiến của tập thể mình được ghi nhận và vinh danh. Ngược lại, chúng ta cũng xấu hỗ lây khi nghe đài truyền hình, báo chí phanh phui những việc gian lận, buôn người, băng đảng, mà các can phạm mang những họ Trần, Lê, Nguyễn…

Vài năm trước đây, không rõ từ nguồn tin nào mà báo chí tiếng Việt đưa những tin rất “phần chấn” rằng tỷ lệ người Việt có bằng đại học cao đến 40%. Điều khó phủ nhận là con em của những người tị nạn Việt Nam ngày nay đa số đã thành đạt. Các em học giỏi, đứng đầu lớp khi tốt nghiệp trung học, nhận bằng tối ưu, danh dự khi tốt nghiệp đại học… Dường như gia đình nào cũng có con em tốt nghiệp đại học. Nào kỹ sư, nào bác sĩ, dược sĩ, nào luật sư… Các trang báo đăng tin mừng, chia vui đầy rẩy trong mùa tốt nghiệp. Các hội đoàn cũng nhân ngày họp mặt xướng danh và ban phát giấy khen các tân khoa.

Nhưng thực tế, cái tỷ lệ tốt nghiệp đại học trong cộng đồng Việt không cao như thế, dù đang có chiều hướng gia tăng. Có lẽ họ đã mượn nhầm con số tổng quát của tập thể Mỹ gốc Á (48%) mà trong đó sắc dân Việt khiêm tốn đứng hàng thứ ba (19%) tính ngược từ dưới lên (chỉ cao hơn sắc dân Cambodia, Lào và Hmong)

Người viết bài này đã tham khảo nhiều tài liệu của chính phủ cũng như của các cơ quan nghiên cứu. Vì vấn đề thống kê dân số rất phức tạp, tốn kém, nên phải 10 năm, chính phủ mới có một văn bản với đầy đủ các chi tiết. Tài liệu mới nhất mà tác giả tìm được cũng từ năm 2010. Đa số là tài liệu năm 2000. Do đó bài này không thể phản ảnh đúng tình trạng hiện nay của đầu thập niên 2010, nhưng tác giả tin rằng sự sai biệt là không đáng kể.
dan_so_bieu_do_3_phai_bieu_do_6_trai_resized
Hình các biểu đồ.
1.- Sự hình thành cộng đồng người Mỹ gốc Việt

Dù mọi người đã biết rõ về sự hình thành cộng đồng người Mỹ gốc Việt, chúng tôi cũng xin nhắc lại sơ qua với các tình tiết liên quan đến chủ đề của bài này.

Trước ngày miền Nam mất vào tay Cộng Sản, chỉ có 650 người Việt sinh sống tại Hoa Kỳ. Họ là những sinh viên du học thời Việt Nam Cộng Hoà và không về nước trước biến cố 30/4/1975. Ngay những ngày sôi động khi miền Nam thất thủ, hàng chục ngàn người mà đa số là thị dân, công chức quân nhân cao cấp đã thoát kịp và được nhận vào Hoa Kỳ. Sau đó, nhờ vào Đạo Luật Giúp Đỡ Di Dân Tị Nạn Đông Dương năm 1975 (Indochina Migration and Refugee Assistance Act) do cố Tổng Thống Gerald Ford đề xướng và được Quốc Hội ban hành, cho đến 2002, có tổng cộng 1,146, 650 di dân đến từ ba nước Đông Dương, trong đó đông nhất là dân Việt Nam với 759, 482 người thứ đến là Lào (241,996) và Cambodian (145,172). Sau 2002, các chương trình đặc biệt như Định Cư Cựu Tù Nhân Chính Trị và Con Lai đã chấm dứt, chỉ còn chương trình Đoàn Tụ Gia Đình, cho nên lượng di dân của người Việt cũng không còn ồ ạt. Do đó sự gia tăng không đáng kể. Thống kê 2010 cho biết có 1,737,433 người Việt định cư tại Hoa Kỳ trong đó có 82% đã trở thành công dân Mỹ. Có đến 581,946 người (38%) cư trú tại Tiểu Bang California, và 210,913 người (14%) tại Texas. Người Mỹ gốc Việt đông hàng thứ tư trong tổng số dân Mỹ gốc Á Châu, tập trung tại các thành phố lớn như San Jose, Houston, Seattle, Washington, D.C. (vùng Bắc Virginia), và Dallas-Fort Worth.

Có đến hơn một triệu người Việt trên 5 tuổi nói tiếng Việt trong gia đình, làm cho Việt Ngữ đứng thứ bảy trong số những ngôn ngữ được dung nhiều nhất tại Hoa Kỳ.

2.- Thành phần xã hội:

Thành phần xã hội và mức lợi tức của người Mỹ gốc Việt rất đa dạng. Trong đợt đến Mỹ đầu tiên, như đã nói ở trên, là những người dân trung lưu các thành thị lớn ở miền Nam mà đa số là công chức, quân nhân cao cấp, hàng ngũ trí thức.

Trong đợt di dân thứ hai từ năm 1978 đến giữa 1980, ước tính có cả triệu người Việt đã trốn tránh chế độ CS trên các con thuyền mỏng manh. Có phân nữa đã bị vùi thây trên biển cả, phân nữa khác đến được các nước tự do, mà đa số là đến Hoa Kỳ. Thành phần di dân này đuợc gọi là Thuyền Nhân đa số ở tầng lớp thấp của xã hội, học vấn từ trung bình đến thấp, không có tay nghề chuyên môn. Sau khi Quốc Hội thông qua Đạo Luật Tị Nạn (Refugee Act, 1980), từ đầu thập niên 1990, các cựu quân nhân công chức từng bị Cộng Sản giam cầm và gia đình (531,310 người) được Hoa Kỳ cho nhập cư. Kế đó là đợt di dân của các con lai, mà cha họ là những người Mỹ từng làm việc hay chiến đấu ở Việt Nam.

Dù thuộc thành phần trung lưu hay thấp kém, đa số người Việt đều bị trở ngại bởi hàng rào ngôn ngữ. Chỉ có một số rất nhỏ học thêm ở đại học để có công việc tốt ở các hãng điện tử, văn phòng, giáo dục…, đa số còn lại phải làm thợ trong các hãng xưởng, tiệm ăn, sửa chữa xe cộ, cắt cỏ và hành nghề làm móng tay, cắt tóc. Sự cách biệt được thấy khá rõ ở San Jose khi so sánh những cư dân Việt làm nghề lao động bình thường (blue collars) ở khu vực downtown San Jose với dân có trình độ làm chuyên viên (professionals) ở khu Evergreen và Berryessa. Một điều lý thú là người Việt thích chọn nghành Nails, có lẽ vì lý do dễ học, chỉ cần khéo tay mà lại không cần biết Anh ngữ. Trong số những người làm neo toàn quốc, có 43% là người Việt. Tỷ lệ này lên đến 80% tại Tiểu Bang California.
dan_so_bieu_do_4_bieu_do_7_resized
Hình các biểu đồ.
3.- Mức Độ Hội Nhập vào Xã Hội Mỹ

Theo một nghiên cứu của Học Viện Manhattan vào năm 2008, thì nhìn chung, người Việt nhanh chóng hội nhập vào đời sống Mỹ (chỉ thua Canadian, Filippino, ngang hàng với Cuban, Korean). Về phương diện đời sống (Civic) thì người Việt có mức hội nhập cao nhất, nhưng về mặt văn hoá, thì thua kém các cộng đồng dân khác (chỉ hơn Trung Hoa và Ấn Độ). Xin lưu ý: Mức độ hội nhập văn hoá không liên quan đến trình độ học vấn, người Việt có chỉ số thấp vì trở ngại ngôn ngữ. Sự tham gia hoạt động chính trị cũng cao có lẽ vì họ là những người tị nạn chính trị, và đã chấp nhận Hoa Kỳ là quê hương mới.

Các so sánh này không đề cập đến dân Lào và Cambodian.

So với những người Mỹ gốc Á khác, thì rõ ràng người Việt kém hẳn về sự thành đạt trong học vấn và sự giàu có. Nhưng họ đang có chiều hướng vượt lên. Chỉ trong mười năm 1989 và 1999 tỷ lệ nghèo khó của cư dân Việt giảm từ 34% xuống còn 16%, so với 12% là tỷ lệ nghèo khó chung của toàn dân Mỹ cũng trong năm 1999.

4.- Trình Độ Học Vấn:

Tại Việt Nam trước năm 1975, có khoảng 25% dân số có trình độ Trung Học. Bằng Tú Tài là mức phổ cập của giới trung lưu. Nhưng tại Mỹ, thì bằng đó chỉ là mức phổ cập của đại chúng.

Thống kê Mỹ cho thấy có 61.9% trong tổng số cư dân Việt có bằng Trung Học hoặc cao hơn, so với tỷ lệ chung toàn dân Mỹ là 80.4%. Người Việt chỉ khá hơn người Lào (50.5%) và Cambodian (47.1%). Trong các sắc dân Mỹ gốc Á châu, người Nhật có tỷ lệ cao nhất (91.4%), kế đó là Filippino (87.4%), Korean (86.4%), Ấn Độ (85.4%), và Trung Hoa (77.6%). Tỷ lệ dân có bằng Đại học của Mỹ là 24.4%, trong khi các nước dân Mỹ gốc Á theo thứ tự từ cao xuống thấp là: Ấn Độ (60.9%), Trung Hoa (46.6%), Korean (43.1%), Filippino (41.7%), Nhật Bản (40.4%), Việt Nam (19.5%), Cambodian (9.1%), Laotian (7.6%). Con số theo thống kê năm 2003 có khả quan hơn (Xem đồ biểu)

Source: U.S. Department of Commerce, Economics and Statistics Administration, U.S. Census Bureau. 2000.

Bước qua thế hệ thứ hai, người Mỹ gốc Việt đã có sự tiến bộ đáng kể về phương diện học vấn. Truyền thống gia đình của người Việt là khuyến khích con cái học hành vì họ quan niệm sự giáo dục là chìa khoá vạn năng, sẽ giúp mở tất cả các cánh cửa vào đời, bảo đảm sự thành công về danh vọng và tiền tài. Thanh niên Việt đặc biệt chú trọng vào các nghành kỹ sư và y, nha, dược, mà ít theo đuổi các ngành nhân văn, một phần có lẽ do trở ngại về văn hoá và rất thực tế là các ngành này khó kiếm ra nhiều tiền. Theo thống kê 2010, trong tổng số những người Việt trên 25 tuối, có 29% chưa có bằng Trung Học hoặc thấp hơn. Trong khi tỷ lệ này là 38% cho người Hmong, 37% cho người Cambodia, 33 cho người Lào so với Nhật chỉ có 5.4%, Indonesian 7%.

Những sự yếu kém về các mặt của người Mỹ gốc Việt có thể đổ cho trở ngại ngôn ngữ. người Việt có tỷ lệ cao nhất (45%) trong các sắc dân gốc Á về điểu mà các nhà Xã Hội Học Mỹ gọi là “Linguistically Isolated” (tạm dịch là bị cách biệt vì ngôn ngữ bất đồng) tệ hơn cả dân Lào, Hmong,Cambodia. Tỷ lệ chung cho các sắc dân Á là khoảng 25%. Thống kê 2010 cũng cho biết có đến 51% người Việt không nói sỏi tiếng Anh,

Source: https://www.federalregister.gov/articles/2012/05/04/2012-10835/request-for-information-to-gather-technical-expertise-pertaining-to-the-disaggregation-of-asian-and
dan_so_bieu_do_5_resized
Hình các biểu đồ.
5.- Mức Giàu-Nghèo:

Cũng theo thống kê 2000, lợi tức trung bình một gia đình Mỹ (tổng quát) là $60,609, bình quân đầu người là $26,059; Mỹ gốc Á cao hơn: $75,964 (gia đình) và $27,284 (đầu người). Trong khi đó Mỹ gốc Việt là $56,958 (Gia đình) và $19,987 (đầu người), chỉ khá hơn dân Lào và Cambodian. (Xem thống kê).

Theo thống kê Reeves Bennet 2004 và Teranishi 2010, nếu tính theo tỷ lệ số người trong sắc dân mà sống dưới mức nghèo khó (theo tiêu chuẩn của Hoa Kỳ) thì Việt Nam có 16.6%, trong khi toàn quốc là 15.3%, dân Mỹ gốc Á là 12.4%. Dân Mỹ gốc Việt lại cũng chỉ khá hơn dân Lào (18.5%), Hmong 37.8%) và Cambodian (29.3%). Chỉ có người Ấn Độ, Filippino và Nhật là có tỷ lệ thấp nhất. Dĩ nhiên, dân gốc Việt khá hơn nhiều so với các dân Mỹ da đỏ (25.7%), Mỹ da đen (24.7%), Hispanic (22.6%). Biểu đồ bên dưới là của năm 1999.

Các nghiên cứu mới nhất cho biết hiện nay có đến gần phân nửa số dân Mỹ phải lãnh trợ cấp welfare và Phiếu Thực Phẩm (Xin xem các bài của tác giả Đỗ Văn Phúc trong: http://www.michaelpdo.com/USAWrongTrack.htm, http://www.michaelpdo.com/USAWelfareState.htm

Trở lại thống kê năm 2000, trong tổng số 477 ngàn gia đình Mỹ gốc Việt, có 15.8% nhận Trợ Cấp An Sinh Xã Hội, 9.3% nhận Trợ Cấp Gia Tăng (SSI), 11.9% nhận phiếu Thực Phẩm. So với toàn thể dân Mỹ nói chung và các sắc dân Đông Dương nói riêng, thì sắc dân Việt có điểm khá, có điểm yếu kém hơn. Xin xem biểu đồ 7 bên dưới với nhiều chi tiết hơn.

Tuy nhiên, các con số thống kê của Mỹ không hẳn đã phản ảnh chính xác sự thật. Là người hoạt động cộng đồng trong hơn hai thập niên, tác giả biết nhiều về những hiện trạng kinh tế tài chánh của các gia đình Việt Nam. Có rất nhiều người làm các nghề tự do, nhận tiền mặt mà không khai báo hết khi khai thuế cuối năm. Nhiều người đi làm có lợi tức nhưng vẫn man khai nghèo khó để lãnh tiền An Sinh Xã Hội và Phiếu Thực Phẩm. Chính tận mắt tác giả đã thấy một bà dùng Phiếu Thực Phẩm (ở Texas, đó là thẻ Lone Star cấp cho gần 2 triệu dân Texas) để mua một xe (shopping cart) đầy những trái sầu riêng. Có những người Việt “nghèo” ở trong những căn nhà trị giá nửa triệu, đi trên những chiếc xe Lexus, BMW láng bóng. Mỗi năm, người Việt ở Mỹ gửi về cho gia đình bên Việt Nam hàng tỷ đô la. Như thế, có quá mâu thuẫn khi nhìn vào mức nghèo khó của tập thể Mỹ gốc Việt trên các thống kê của chính phủ? Những người lương thiện hẳn phải bứt rứt, cảm thấy xấu hỗ mỗi khi nghe đến các vụ gian lận bị phanh phui, và bị những người Mỹ bản xứ nhìn vào như những người đến đất của họ để ăn bám, lạm dụng hệ thống An Sinh Xã Hội!

Sự trưởng thành của các người Việt thế hệ sau này chắc sẽ làm thay đổi nhiều tình trạng yếu kém về tài chánh và trình độ mà đã đẩy người Mỹ gốc Việt xuống gần cuối thang của sự đánh giá chung. Người Việt vốn thông minh, tháo vát, có óc cầu tiến chắc sẽ không thua kém các sắc dân Á Châu khác. Một điều cần lưu ý là sự di dân của những sắc dân Á Châu khác hoàn toàn khác hẳn với dân ba nước Đông Dương. Họ là những người trung lưu đến Mỹ du học hoặc lập nghiệp mà số vốn tài chánh và tri thức mang theo cao hơn nhiều so với những người Việt Nam chúng ta. Do đó không lạ, họ ở mức thang rất cao trong sự đánh giá. Có lãnh vực còn cao hơn cả dân Mỹ bản địa.

Cuối tháng 8/2013

Đỗ Văn Phúc

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
Hí viện Crocus City Hall, cách Kremlin 20 km, hôm 22 tháng O3/2024, đang có buổi trình diển nhạc rock, bị tấn công bằng súng và bom làm chết 143 người tham dự và nhiều người bị thương cho thấy hệ thống an ninh của Poutine bất lực. Trước khi khủng bố xảy ra, tình báo Mỹ đã thông báo nhưng Poutine không tin, trái lại, còn cho là Mỹ kiếm chuyện khiêu khích...
Khi Việt Nam nỗ lực thích ứng với môi trường quốc tế ngày càng cạnh tranh hơn, giới lãnh đạo đất nước đã tự hào về “chính sách ngoại cây giao tre” đa chiều của mình. Được Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), thúc đẩy từ giữa thập niên 2010, ý tưởng là bằng cách cân bằng mối quan hệ của Việt Nam với các cường quốc – không đứng về bên nào, tự chủ và thể hiện sự linh hoạt – nó có thể duy trì sự trung gian và lợi ích của mình, đồng thời tận dụng các cơ hội kinh tế do tình trạng cạnh tranh của các đại cường tạo ra
Cộng sản Việt Nam khoe có tự do tôn giáo ở Việt Nam, nhưng Hoa Kỳ và Thế giới nói “rất hạn chế”, tùy nơi và từng trường hợp. Tình trạng này đã giữ nguyên như thế trong những báo cáo trước đây của cả đôi bên. Nhưng tại sao Hoa Kỳ vẫn liệt Việt Nam vào danh sách phải “theo dõi đặc biệt”...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.