Ở Việt-nam tôi không biết nhiều về anh. Tôi vẫn đọc những bài báo của anh trong Chính Luận, và dù biết anh là một nhà báo có tài và là bạn của nhiều nhà báo chuyên-nghiệp khác, trong đó có cả ông anh tôi, Nguyễn Ngọc Phách, song chúng tôi cũng ít có dịp làm thân với nhau. Bởi có lẽ anh sinh-hoạt chủ-yếu trong quốc-nội (làm tin về Quốc-hội, tin kinh tế tài-chánh, v.v.) trong khi tôi thì lo Trung-tâm Dân-vụ (nơi cung-cấp dịch-vụ cho các ký-giả ngoại-quốc) và Cục Thông tin Quốc-ngoại, nghĩa là nhìn ra ngoài nhiều hơn. Ngay khi tôi về làm Việt Tấn Xã thì tôi cũng là một nhân-viên Nhà nước lo về thông tin trong khi anh là một ký-giả độc-lập, làm báo tư-nhân. Chỉ biết ngay từ những ngày đó, anh đã có dáng dấp của một con người... bất cần đời, đi dép lẹt phẹt vào Quốc-hội và đôi khi cũng hỏi những câu thật... xấc, làm cho không ít ông bà dân-cử chỉ muôn chạy trốn thôi.
Sang Mỹ năm 75, ít năm sau tôi có dịp tiếp tay IRC (International Rescue Committee) tìm kiếm xem ai trong các nhà báo, nhà văn, các văn-nghệ-sĩ đã thoát ra được ngoài này, tôi có dịp tham-khảo nhà báo Phạm Trần, một ông bạn khác của ông Phách anh tôi, thì mới khám-phá được ra không biết bao nhiêu người bị kẹt lại. Rồi đến khoảng 1978 khi Eric Schwartz, lúc bấy giờ đang coi Human Rights Watch Asia*, nhờ chúng tôi (anh Phạm Trần và tôi) làm danh-sách các văn-nghệ-sĩ, nhà báo bị kẹt lại chúng tôi mới có dịp đưa tên Lê Thiệp vào danh-sách để HRW-Asia tìm cách lên tiếng can-thiệp. Thì một năm sau, có tin Lê Thiệp đã vượt biển và được tàu Nhật vớt đưa sang bên ấy. Gặp Ngô Chí Dũng và các anh em trong nhóm Người Việt Tự do (lúc bấy giờ ra báo mang cùng tên, rất giá trị), anh dù đang ở trong trại tỵ nạn cũng tham-gia viết lách một cách rất tích-cực.
Sau được nhận vào Mỹ, anh định cư ở San Jose và tham-gia hết mình vào phong trào kháng-chiến Hoàng Cơ Minh, có lúc lo tờ Kháng Chiến cho Mặt Trận. Thời-gian ở trong Mặt Trận, có lẽ anh đã học được nghề nấu phở nên sau này, khi bỏ Mặt Trận và bung ra làm ăn, anh đã rất thành công trong "chaine" Phở 75 của anh--để thành một trong những nhà báo VN thành triệu-phú đầu tiên ở hải-ngoại. Nhưng dù tiệm Phở 75 của anh ở Arlington có mang mấy chữ Hán đại-tự do cụ Trương Cam Khải viết, "Danh Bất Hư Truyền," anh vẫn tỏ ra là con người lè phè, bình-dân, xem chừng dễ tính mà nhiều người biết nên rất dễ làm thân. Và cũng vì anh hay la cà ở mấy tiệm phở của anh nên anh có rất nhiều bạn, bạn từ xa xưa, từ ngày còn ở VN cho đến các bạn sau này mới quen, kể cả một số bạn Mỹ, nhiều người làm lớn.
Phải nói nếu phở VN ngày nay được nhiều người ngoại-quốc biết đến thì công của Lê Thiệp không phải là nhỏ. Chính những người như anh đã làm cho chữ "phở" ngày nay gần được thành một từ ngữ quen thuộc trong tiếng Anh và nó có khả-năng thành một món ăn quốc-tế không thua gì Pizza (gốc Ý) hay Hot Dog (gốc Đức, gốc Ba-lan).
Nhưng dù anh có nghề tay trái là "phở" Lê Thiệp vẫn không quên được nghề viết lách. Mấy năm cuối đời, anh quay ra viết và viết rất mạnh. Lúc đầu còn là những bài tùy bút hay phóng bút đăng trước tiên trên Hoa Thịnh Đốn Việt Báo, được rất nhiều người theo dõi. Sau, với sự khuyến khích của Uyên Thao (Nhà xb Tiếng Quê Hương), anh gom chúng thành những tác-phẩm dễ thương như cuốn "Lững thững giữa đời" và "Chân ướt chân ráo." Không viết thì thôi, viết thì có tình, có chiều sâu, viết kỹ. Bởi thế mà một cuốn như "Đỗ Lệnh Dũng" của anh, viết về một người bạn, có ý nghĩa sâu xa hơn là kinh-nghiệm lính của một người vào cuối cuộc chiến. Nó tiêu-biểu cho một người lính miền Nam, xem tưởng phất phơ nhưng tình bạn, tình đồng-đội, tình mẫu tử, và tình quê hương hiển-hiện trong con người lính "Đỗ Lệnh Dũng."
Cái chân-tình của Thiệp đối với bạn bè được coi như một đức-tính quý nhất nơi anh. Anh không thích nói nhưng sẵn sàng ra tay nghĩa-hiệp khi cần giúp vào một chuyện gì, khi thì là chuyện cộng-đồng, nước non, khi thì là một người bạn ngã ngựa. Tóm lại, anh là một con người văn nghệ thật hào-phóng.
Tôi hình như không có duyên nhiều với Lê Thiệp. Phần vì nghề nghiệp, anh có một nghề tự do trong khi tôi thì gần như công-chức. Anh thích nhắm rượu đi kèm với đồ nhậu, tôi thì không uống được một giọt rượu vang--mất hẳn đi cái thú "nam vô tửu..." Nhưng không phải vì thế mà chúng tôi không có phần nào "quý" nhau. Trong những dịp hiếm có khi ngồi trò chuyện với anh ở Phở 75 Arlington, anh vẫn thường hỏi về công việc làm của tôi, những dự-án hay nghiên cứu mà tôi đang thực-hiện.
Bỗng chiều nay (mồng 5 tháng 7/2013), tôi được tin anh đã ra đi. Nhẹ nhõm, lịm đi... coi cuộc sống nhẹ như lông hồng, như hôm anh tuyên-bố anh bị ung-thư sang giai-đoạn chót nhân ra mắt Tuyển tập Trần Phong Vũ, bạn anh. Dù như ai cũng biết ung-thư là một căn bệnh có thể rất đau đớn. Nhưng anh không muốn thấy Mai, vợ anh, và các cháu phải đau buồn vì anh. Tôi không có ở đó, không cả được gặp anh vào những ngày cuối của anh, nhưng tôi vẫn nghĩ: Nhớ đến Thiệp là nhớ đến đôi mắt tinh nghịch, bỡn cợt, đến một nụ cười... nhạo thế giữa các bạn quây quần!
Vĩnh-biệt Bạn, Ông Thiệp nhé!
Nguyễn Ngọc Bích
_______
* Eric Schwartz về sau, đến thời Tổng-thống Reagan (1981-1989), vào làm trong Hội-đồng An-ninh Quốc-gia (National Security Council) và trong tư-cách này, anh còn giúp được rất nhiều người Việt tỵ nạn như tiếp tay bà Khúc Minh Thơ của Hội Gia-đình Tù-nhân Chính-trị VN để hình thành chương-trình H.O sau đó.
(Do Nhà báo Phạm Trần, đại diện thân hữu của Lê Thiệp tiềp nhận và phổ biến để tưởng nhớ đến một Ký giả có lòng với mọi người.)
Sang Mỹ năm 75, ít năm sau tôi có dịp tiếp tay IRC (International Rescue Committee) tìm kiếm xem ai trong các nhà báo, nhà văn, các văn-nghệ-sĩ đã thoát ra được ngoài này, tôi có dịp tham-khảo nhà báo Phạm Trần, một ông bạn khác của ông Phách anh tôi, thì mới khám-phá được ra không biết bao nhiêu người bị kẹt lại. Rồi đến khoảng 1978 khi Eric Schwartz, lúc bấy giờ đang coi Human Rights Watch Asia*, nhờ chúng tôi (anh Phạm Trần và tôi) làm danh-sách các văn-nghệ-sĩ, nhà báo bị kẹt lại chúng tôi mới có dịp đưa tên Lê Thiệp vào danh-sách để HRW-Asia tìm cách lên tiếng can-thiệp. Thì một năm sau, có tin Lê Thiệp đã vượt biển và được tàu Nhật vớt đưa sang bên ấy. Gặp Ngô Chí Dũng và các anh em trong nhóm Người Việt Tự do (lúc bấy giờ ra báo mang cùng tên, rất giá trị), anh dù đang ở trong trại tỵ nạn cũng tham-gia viết lách một cách rất tích-cực.
Sau được nhận vào Mỹ, anh định cư ở San Jose và tham-gia hết mình vào phong trào kháng-chiến Hoàng Cơ Minh, có lúc lo tờ Kháng Chiến cho Mặt Trận. Thời-gian ở trong Mặt Trận, có lẽ anh đã học được nghề nấu phở nên sau này, khi bỏ Mặt Trận và bung ra làm ăn, anh đã rất thành công trong "chaine" Phở 75 của anh--để thành một trong những nhà báo VN thành triệu-phú đầu tiên ở hải-ngoại. Nhưng dù tiệm Phở 75 của anh ở Arlington có mang mấy chữ Hán đại-tự do cụ Trương Cam Khải viết, "Danh Bất Hư Truyền," anh vẫn tỏ ra là con người lè phè, bình-dân, xem chừng dễ tính mà nhiều người biết nên rất dễ làm thân. Và cũng vì anh hay la cà ở mấy tiệm phở của anh nên anh có rất nhiều bạn, bạn từ xa xưa, từ ngày còn ở VN cho đến các bạn sau này mới quen, kể cả một số bạn Mỹ, nhiều người làm lớn.
Phải nói nếu phở VN ngày nay được nhiều người ngoại-quốc biết đến thì công của Lê Thiệp không phải là nhỏ. Chính những người như anh đã làm cho chữ "phở" ngày nay gần được thành một từ ngữ quen thuộc trong tiếng Anh và nó có khả-năng thành một món ăn quốc-tế không thua gì Pizza (gốc Ý) hay Hot Dog (gốc Đức, gốc Ba-lan).
Nhưng dù anh có nghề tay trái là "phở" Lê Thiệp vẫn không quên được nghề viết lách. Mấy năm cuối đời, anh quay ra viết và viết rất mạnh. Lúc đầu còn là những bài tùy bút hay phóng bút đăng trước tiên trên Hoa Thịnh Đốn Việt Báo, được rất nhiều người theo dõi. Sau, với sự khuyến khích của Uyên Thao (Nhà xb Tiếng Quê Hương), anh gom chúng thành những tác-phẩm dễ thương như cuốn "Lững thững giữa đời" và "Chân ướt chân ráo." Không viết thì thôi, viết thì có tình, có chiều sâu, viết kỹ. Bởi thế mà một cuốn như "Đỗ Lệnh Dũng" của anh, viết về một người bạn, có ý nghĩa sâu xa hơn là kinh-nghiệm lính của một người vào cuối cuộc chiến. Nó tiêu-biểu cho một người lính miền Nam, xem tưởng phất phơ nhưng tình bạn, tình đồng-đội, tình mẫu tử, và tình quê hương hiển-hiện trong con người lính "Đỗ Lệnh Dũng."
Cái chân-tình của Thiệp đối với bạn bè được coi như một đức-tính quý nhất nơi anh. Anh không thích nói nhưng sẵn sàng ra tay nghĩa-hiệp khi cần giúp vào một chuyện gì, khi thì là chuyện cộng-đồng, nước non, khi thì là một người bạn ngã ngựa. Tóm lại, anh là một con người văn nghệ thật hào-phóng.
Tôi hình như không có duyên nhiều với Lê Thiệp. Phần vì nghề nghiệp, anh có một nghề tự do trong khi tôi thì gần như công-chức. Anh thích nhắm rượu đi kèm với đồ nhậu, tôi thì không uống được một giọt rượu vang--mất hẳn đi cái thú "nam vô tửu..." Nhưng không phải vì thế mà chúng tôi không có phần nào "quý" nhau. Trong những dịp hiếm có khi ngồi trò chuyện với anh ở Phở 75 Arlington, anh vẫn thường hỏi về công việc làm của tôi, những dự-án hay nghiên cứu mà tôi đang thực-hiện.
Bỗng chiều nay (mồng 5 tháng 7/2013), tôi được tin anh đã ra đi. Nhẹ nhõm, lịm đi... coi cuộc sống nhẹ như lông hồng, như hôm anh tuyên-bố anh bị ung-thư sang giai-đoạn chót nhân ra mắt Tuyển tập Trần Phong Vũ, bạn anh. Dù như ai cũng biết ung-thư là một căn bệnh có thể rất đau đớn. Nhưng anh không muốn thấy Mai, vợ anh, và các cháu phải đau buồn vì anh. Tôi không có ở đó, không cả được gặp anh vào những ngày cuối của anh, nhưng tôi vẫn nghĩ: Nhớ đến Thiệp là nhớ đến đôi mắt tinh nghịch, bỡn cợt, đến một nụ cười... nhạo thế giữa các bạn quây quần!
Vĩnh-biệt Bạn, Ông Thiệp nhé!
Nguyễn Ngọc Bích
_______
* Eric Schwartz về sau, đến thời Tổng-thống Reagan (1981-1989), vào làm trong Hội-đồng An-ninh Quốc-gia (National Security Council) và trong tư-cách này, anh còn giúp được rất nhiều người Việt tỵ nạn như tiếp tay bà Khúc Minh Thơ của Hội Gia-đình Tù-nhân Chính-trị VN để hình thành chương-trình H.O sau đó.
(Do Nhà báo Phạm Trần, đại diện thân hữu của Lê Thiệp tiềp nhận và phổ biến để tưởng nhớ đến một Ký giả có lòng với mọi người.)
Gửi ý kiến của bạn