Hôm nay,  

Tin Nghe Được Không Vui

04/06/201300:00:00(Xem: 13394)
Trong những tuần lễ thứ 19, 20, 21 của tháng 5 năm 2013, nghe tin trên các đài RFA, RFI tiếng Việt, chúng ta là người đã vượt biển tìm tự do từ sau 30-04-1975 và mãi đến thập kỷ 1990 mới tạm chấm dứt khi các trại tỵ nạn ở Đông Nam Á đóng cửa, và tình trạng những người vượt biển tìm tự do Việt Nam chỉ chấm dứt khi cộng sản Liên Xô sụp đổ vào những năm ở cuối thế kỷ 20. Ngày nay 38 năm sau vẫn còn có những chuyến hải hành tìm tự do cũng xuất phát từ Việt Nam, và họ đã tìm đường đi thật xa tới thẳng nước Úc, vì biết rằng các quốc gia như Thái,Indonesia, Malaysia,Phi không nơi nào còn trại tỵ nạn cho họ trú chân, họ đến Úc để hy vọng họ được cứu vớt.

Nhưng quốc gia Úc đã từ chối tiếp nhận họ và nhốt họ vào các trại tạm giam để chờ phân loại xem họ có thực sự là người tỵ nạn hay không? Là thân phận những người đã vượt biển trong tình trạnh trốn thoát, thiếu thốn, tìm đường ra đi tìm tự do thủa nào; vết thương vẫn còn rướm máu vì tù đầy khi bị bắt bớ trở lại, khi thiếu dầu, thiếu nhớt, thiếu nước uống và lương thực; khi thuyền bị hỏng máy lâm nạn trên biển, khi gặp hải tặc, khi bị hãm hiếp, khi bị giết, bị thảy xuống biển, khi kiệt sức và mỏi mệt vì nhiều ngày lênh đênh trên biển, xin cứu vớt mà những chuyến tàu cứ thản nhiên bỏ đi (xin mời đọc Chuyện kể Hành Trình Biển Đông của Ngụy Vũ), để nhớ lại; những vết thương lòng đó ngày nay vẫn còn rỉ máu vì mất con, mất chồng, mất cha, mất mẹ, mất anh, mất em, mất bạn, mất người thân trong chuyến hải hành trốn thoát mà mình còn may mắt sống sót trong chuyến vượt biên.

Nay nghe được tin như sống lại cảnh ấy, ngày ấy. Bởi là người không phải là sắt là đá, cho nên người viết không thể im lặng dù khi viết ra có mất lòng nhau cũng viết, để thế giới quan tâm và đừng ngoảnh mặt đi khi những người đang bị các chế độ độc tài, nhất là độc tài Cộng Sản Việt Nam. Cứu xét hoàn cảnh của họ khi phải bỏ nước, bỏ các chế độ độc tài mà trốn thoát tìm tự do ở những nơi có tự do, có nhân quyền thật.

1- Tạ ơn.

Vì là người tỵ nạn Việt Nam, mỗi lần có dịp nghe tới, nhắc tới, nhớ tới, lòng người viết lại bùi ngùi xúc động nhớ và biết ơn đến người thuyền trưởng và các thủy thủa đoàn của ông, đã thương mà cứu vớt thuyền nhân tỵ nạn giữa biển đông ngày nào cách nay trên 30 năm, đưa vào trại tỵ nạn Singapore. Có đi vượt biên mới cảm thông được nỗi lòng của kẻ vượt thoát ra đi tìm tự do, mới cảm nhận được nỗi khốn khổ của những ngày phải ngồi bó gối trong hầm tàu nóng bức trong khi biển khơi thì lộng gió, nước uống thức ăn tiếp từng giọt, từng miếng khi đã khởi hành lâu ngày mà chưa đến bến, hay chưa được cứu trên biển. Đó là chưa kể đến gặp cướp biển Thái, hay tàu bị hỏng máy, bị bể thuyền, trôi lênh đênh nhiều ngày trên biển, có những chuyến đã phải xẻ thịt những người bị chết để lấy lương thực ăn, và lấy máu để uống vì quá đói và quá khát. Những lúc nguy cấp này chỉ còn chọn giữa hai sự sống và sự chết. Thực vậy, người viết khi vào đến trại tỵ nạn Singapor mấy ngày sau mà mỗi lần đi ở trong đất trại nó vẫn còn bồng bềnh như lúc còn ở trên tàu vượt biên trên biển. Phải cả tuần sau mới hoàn lại bình phục, mới biết mình còn sống và đến được vùng trời tự do.

Tạ ơn những người cứu vớt người tỵ nạn trên biển. Ta còn phải tạ ơn những quốc gia đang có trại tỵ nạn ở trên đó như: Thái, Indonesia, Hồng Kông, Singapore, Phi Luật Tân, vì những trại này là chỗ chứa chân, cho người tỵ nạn Việt Nam tạm dung thân đầu tiên để chờ làm thủ tục đi định cư ở các quốc gia khác. Tạ ơn Cao Ủy tỵ nạn, các người hảo tâm đã bỏ của, bỏ công tình nguyện làm việc để vận động thế giới rủ lòng thương người tỵ nạn Việt Nam vượt đại dương đi tìm tự do. Không có những tấm lòng ấy thì không có người tỵ nạn Việt Nam. Không có những tấm lòng ấy thì còn vô số người bị chết chìm giữa biển khơi, mà con số ước lượng của Cao Ủy Tỵ Nạn không phải là khoảng 500.000 mà có khi đến trên 1.000.000 người bị chết chìm giữa biển khơi. Cho nên người đi vượt biên ngày đó đời đời nhớ đến các vị ân nhân đó, nhờ họ mà ta có sự sống như ngày hôm nay.

2- Xin một ơn huệ.

Xin các nước tự do tư bản nhận các người tỵ nạn Việt Nam bằng thuyền hay bằng bất cứ một phương tiện nào mà đến được đất nước có tự do của quý vị, không chỉ người Việt Nam mà thôi, mà tất cả những dân tộc khác, những dân tộc còn đang bị áp bức dưới các chế độ độc tài. Xin hãy cứu xét tỷ mỉ hoàn cảnh tỵ nạn của họ, đừng trả họ về nếu họ về mà bị áp bức, tù đầy.

Cũng xin cứu xét lại những người được nhận là tỵ nạn chính trị thủa trước, dù họ là Việt Nam hay các dân tộc khác, mà lúc ra đi tìm tự do đã trên 21 tuổi (không kể những người đi theo diện đoàn tụ gia đình) mà khi họ đã trở về quê hương đất nước họ nhiều lần không bị bắt bớ hành hạ, những người đã về và làm ăn hợp tác với cái chính quyền mà thủa trước chính họ đã trốn thoát ra đi. Xin trả ngay họ về để lấy nhà lấy chỗ nhận những người khác, vì con, cháu chúng tôi khi đi làm phải đóng thuế để xây dựng xã hội, duy trì đới sống an sinh xã hội của quý quốc gia đã tiếp nhận và cho phét chúng tôi tới định cư ngày trước.

3- Tránh xa sự lừa đảo của CSVN lần nữa.

Như mọi người đã biết, Cộng Sản mới có mặt trên địa cầu khoảng 100 năm, đã tàn sát dã man khoảng 100.000.000 người bằng đủ các hình thức, từ năm 1989 khi Cộng Sản Liên Xô sụp xuống, kéo theo cả một hệ thống các nước bị theo chủ nghĩa này bằng bạo lực, chỉ còn lại vài nước hậu thân của Cộng Sản là Trung Quốc, Việt Nam, Bắc Hàn và Cu ba. Những nước này chỉ còn lý tưởng Cộng Sản theo hình thức, chỉ còn cái vỏ bên ngoài, vì CS nguyên thủy không có CS đỏ, không có CS có hàng tỷ đô la. Nhưng bên trong đã chuyển sang các chế độ độc tài quân phiệt và cảnh sát phiệt, chuyên môn bưng bít và lưà dối người dân ở trong nước bằng đủ mọi mánh khóe lừa gạt, và lừa gạt cả thế giới tự do về tự do dân chủ. Đảng cộng sản Việt Nam là hậu thân của đảng cộng sản Liên Xô, được đem vào Việt Nam do Hồ Chí Minh từ những năm 1930, suốt 80 năm qua, dân Việt Nam toàn được ăn bánh vẽ, toàn bị lừa, hết bị lừa lớn đến bị lừa nhỏ, đến nỗi ngày 30-04-1975 dân Việt cả Nam lẫn Bắc thấy rõ bị lừa, đã tìm cách trốn thoát đến tận các các nước tự do tư bản ở trời Âu mà Cộng Sản Việt Nam vẫn lừa, bằng cách đem nghị quyết 36 ra để lừa gạt những người đã trốn thoát nó. Gây phân tán, chia rẽ cộng đồng Việt Nam tỵ nạn ở hải ngoại. Chuyên dùng xảo ngôn để lừa gạt: lúc trốn thoát bị bắt lại thì quy tội phản quốc, được nước thứ ba cho định cư xong trở về thì trở thành “việt kiều yêu quái hay là yêu nước”; người mang tội phản quốc ngày nào, chạy theo “Mỹ, Ngụy” theo tàn dư rác rưởi của Mỹ, Ngụy ngày nào mà khi trở về lại là: “khúc ruột ngàn dặm” hay khúc ruột thừa mà có đô la.

Cộng Sản đã dùng xảo ngôn mà lừa người Việt từ thế hệ này sang thế hệ khác:

Thủa đầu mới đem chủ nghĩa Marx- Lenin về đất nước thì lừa những người yêu nước thời đó, những kẻ đã đem tiền của vàng bạc nuôi cộng sản thì cộng sản đem ra đấu tố giết sạch trong cải cách ruộng đất. Những đảng phái yêu nước khác tư tưởng của Hồ Chí Minh thì bằng mọi cách chúng tiêu diệt hết, chỉ những người đã nhận ra bộ mặt thực của CS hay sớm nhận ra thì mới tìm đường trốn thoát khỏi vòng tay kiềm tỏa của chúng như Vua Bảo Đại, Ngô Đình Diệm v. v. . . Ngày 02-09-1945 cũng nhờ lừa khéo mà có cơ hội tuyến bố độc lập tại vườn Hoa Ba Đình ở Hà Nội. Tháng 7-năm 1954 Hiệp định Paris ký kết để chia đôi đất nước, cũng toàn do ngưới nước ngoài chủ động. Từ vĩ tuyến 17 trở ra theo chủ nghĩa cộng sản do HCM lãnh đạo, từ vĩ tuyến 17 trở vào Nam đi theo chủ nghĩa tư bản do thủ tướng Ngô Đình Diệm lãnh đạo, có đến khoảng một triệu người bỏ miền Bắc nơi chôn nhau cắt rốn di cư vào Nam theo chế độ tự do. Đời sống của miến Nam từ 1954 đến 30-04-1975 được tự do và phú túc.

Nhưng khi chia đôi đất nước rồi, ở miền Bắc CSVN theo gương của CS Trung Cộng đánh tư sản mại bản, cải cách ruộng đất, giết sạch những người có công bỏ vàng bạc tiền của ra nuôi cách mạng thủa trước, biến miền Bắc trở nên nghèo xơ xác, chính sách hộ khẩu được triệt để áp dụng để vận động cả miền Bắc, nhất là giới trẻ để giải phóng miền Nam sau này. Thật họ đã bị lợi dụng, lừa bịp đến nỗi khi đến tuổi mà không đầu quân vào Nam thì không có hộ khẩu để mua lương thực, cha mẹ, gia đình cũng bị họa lây, nên mọi nhà có con thì đều phỉ đi vào lính để vào Nam gọi là đánh Mỹ Ngụy thực hiện chiến tranh giải phóng, giải phóng khỏi sự giầu có thịnh vượng của miền Nam cho nghèo đói như miền Bắc xã Hội chủ nghĩa, cho nên mới có ngày 30-04-1975.

Đường mòn Đường Trường Sơn đã giết bao nhiêu người trẻ ở miền Bắc, di chuyển bằng đường bộ, chết vì bệnh hoạn, chết vì B-52 bỏ bom. Có đọc những buổi liên hoan tiễn người yêu, tiễn con đi Nam hay nhật ký của Thùy Mai bị chết trên đường mòn HCM khi vào Nam mà một người quân nhân Mỹ xuất bản sau này thì mới thấm thía cái lừa của giới trẻ miền Bắc, nhất là khi thoát chết trên đường đi vào đến Nam, thấy được miền Nam trù phú mới bừng tỉnh như nhà văn Dương Thu Hương vào đến Sài Gòn sau ngày 30-04-1975.

Sau 38 năm gọi là thống nhất đất nước, chế độ tồn tại một phần nhờ tiền của nước ngoài, của người ra đi tỵ nạn sau ngày 30-04-1975, những người mà lúc ra đi bị chụp cho cái tội phản quốc. Từ những năm đầu và cho đến nay lừa mỗi năm lên đến khỏang 11 tỷ đô la. Đúng, CSVN là tên siêu lừa đảo, xứng đáng là đàn em của Cộng Sản Trung Cộng. Vì mức độ lừa đảo của CSVN hay như vậy, nên từ người già cả đã có nhiều năm kinh nghiệm sống với cộng sản, đã từ Bắc chạy vào Nam để xa lánh bọn CS, rồi từ Việt Nam vượt biên, vượt biển trốn qua Mỹ, qua các nước có tự do trốn Cộng sản mà vẫn bị lừa, nên mới đem tiền, đem của và về thăm cộng Sản Việt Nam.

Cộng Sản Việt Nam chẳng những lừa một cá nhân, một cộng đồng mà còn lừa cả những người đã từng lãnh đạo tinh thần cả một tập thể lớn chống cộng, về hợp tác với cộng sản, thì chúng ta rõ sở trường chuyên nghiệp của cộng sản Việt Nam lừa đảo tinh vi đến mức độ nào. Thực tế, chỉ cần những người Việt ở nước ngoài không bị lừa gạt, không bị CS dụ dỗ về thăm nhà, thăm quê, về để chết thì tự động chế độ sẽ tản hàng ngay không tiêu tốn một viên đạn. Chuyện đó chưa đến vì người Việt tỵ nạn ở hải ngoại vẫn còn bị CSVN lừa.

Đến bao giờ dân Việt Nam tôi hết bị lừa, và các thuyền nhân Việt Nam không còn trốn thoát ra đi đến bờ biển Úc nữa để tin nghe được không còn buồn./-

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
“Ý thức xã hội mới Việt Nam “là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, những tình cảm, tâm trạng, truyền thống tốt đẹp, v.v. của cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ xã hội mới”. Nói như thế là cuồng tín, vọng ngoại và phản bội ước vọng đi lên của dân tộc...
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
Hí viện Crocus City Hall, cách Kremlin 20 km, hôm 22 tháng O3/2024, đang có buổi trình diển nhạc rock, bị tấn công bằng súng và bom làm chết 143 người tham dự và nhiều người bị thương cho thấy hệ thống an ninh của Poutine bất lực. Trước khi khủng bố xảy ra, tình báo Mỹ đã thông báo nhưng Poutine không tin, trái lại, còn cho là Mỹ kiếm chuyện khiêu khích...
Khi Việt Nam nỗ lực thích ứng với môi trường quốc tế ngày càng cạnh tranh hơn, giới lãnh đạo đất nước đã tự hào về “chính sách ngoại cây giao tre” đa chiều của mình. Được Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), thúc đẩy từ giữa thập niên 2010, ý tưởng là bằng cách cân bằng mối quan hệ của Việt Nam với các cường quốc – không đứng về bên nào, tự chủ và thể hiện sự linh hoạt – nó có thể duy trì sự trung gian và lợi ích của mình, đồng thời tận dụng các cơ hội kinh tế do tình trạng cạnh tranh của các đại cường tạo ra
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.