(Lời tâm tình: “Sử Việt” chỉ khái quát các Nhân vật lịch sử, không đi sâu từng chi tiết của Nhân vật. Cuối mỗi bài viết, phần “Thiết nghĩ” nếu có chỉ là góp ý của tác giả, không ngoài mục đích làm sáng tỏ thêm về nội dung của đề tài đã biên soạn. “Sử Việt” đăng vào ngày thứ Ba (Tuesday) mỗi tuần.)
BỐ CÁI ĐẠI VƯƠNG: PHÙNG HƯNG
(761 - 802)
Truyền thuyết kể rằng: Phùng Hạp Khanh, đã tham gia cuộc khởi nghĩa của Mai Hắc Đế, sau đó, về quê ở Đường Lâm, Sơn Tây, lo làm ăn trở nên giàu có. Phùng Hạp Khanh có 3 người con trai: Phùng Hưng, tự Công Phấn, Phùng Hải tự Tư Hào và Phùng Dĩnh tự Danh Đạt. Trong ba anh em, anh cả Phùng Hưng là người khí phách phi thường; Phùng Hưng nối nghiệp cha trở thành hào trưởng ở Đường Lâm. Ông đã giết hổ dữ để giúp dân làng được bình yên, nên nhân dân luôn mến mộ.
Năm 767, Cao Chính Bình, hiệu úy châu Vũ Định, giúp kinh lược sứ An Nam là Trương Bá Nghi đánh bại được cuộc xâm lược của quân Chà Và (Java) ở Chu Diên, sau đó được cử làm đô hộ An Nam. Hắn đánh sưu cao thuế nặng, vơ vét của cải nhân dân. Không thể nhẫn nhịn được, Phùng Hưng giương cờ khởi nghĩa ở Đường Lâm. Xưng là: Đô quân, Phùng Hải xưng Đô Bảo và Phùng Dĩnh xưng Đô Tổng, chia quân đi trấn giữ các nơi hiểm yếu. Cao Chính Bình tiến quân đánh, nghĩa quân đã cầm cự hơn 20 năm bất phân thắng bại. Sau đấy, Phùng Hưng được Đỗ Anh Hàn là người mưu lược trợ giúp. Đến tháng 4 năm 791, lực lượng đã phát triển hùng mạnh, từ chỗ cầm cự, đến tấn công. Ông cùng các tướng: Phùng Hải, Phùng Dĩnh, Đỗ Anh Hàn, Bồ Phá Cần, chia quân làm 5 đạo vây đánh thành Tống Bình. Cao Chính Bình đem quân ra nghinh chiến, giằng co, xung sát liên tục 7 ngày, giặc bị bại, nên đóng cửa thành cố thủ, sau đó Cao Chính Bình lo sợ quá mà bệnh chết.
Phùng Hưng vào thành phủ dụ dân chúng, quân dân tôn ông lên làm vua. Đồng bào quá cảm kích người đức độ, thương dân, nên gọi ông là Bố Cái Đại Vương, có nghĩa: Bố là Cha, Cái là Mẹ (Vị vua thương dân như cha mẹ thương con). Tuy nhiên, trong Việt giám thông khảo tổng luận, sử thần Lê Tung (thời Lê) lại gọi: “Phùng Bố Cái”; nghĩa chữ “Bố” là: vua (Bua - Bố), và “Cái” là: Lớn. Nghĩa “Bố Cái”, tiếng Nôm là “ Vua Lớn”, cùng nghĩa với từ “Đại Vương” trong tiếng Việt Nho, mà người đời thường dùng chỉ vị vua vĩ đại?!. Ông làm vua được mấy năm thì bị bệnh rồi băng hà vào năm 802. Quân dân lập đền thờ ông ở nhiều nơi. Con trai của ông là Phùng An lên nối nghiệp.
Theo truyền thuyết, sau này ông thường hiển thánh giúp dân lành, khi bị thiên tai như bão lụt, và ông đã hiển linh giúp Ngô Quyền đại phá quân Nam Hán ở trận Bạch Đằng giang. Ngô Quyền sau khi phá xong quân Nam Hán, ổn định tình hình đất nước, liền cho lập đền thờ ông ở Đường Lâm rất đồ sộ.
*- Thiển nghĩ: Nhà Đường đã củng cố sự cai trị, cho xây cất thành trì và quân phòng thủ ở Tống Bình, thường xuyên có mặt 4.200 quân. Nhưng với chính sách sưu cao thuế nặng của chúng, người Giao Châu quật khởi không ngừng. Năm 687, Lý Tự Tiên cùng nhân dân quật khởi chống quan lại tham ô, quan đô hộ Lưu Diên Hựu đàn áp vừa xong. Thì Đinh Kiến khởi nghĩa, đem quân chiếm thành Tống Bình và giết được Lưu Diên Hựu. Nhà Đường phải cử Tào Trực Tĩnh đem quân từ Quế châu qua mới đàn áp được. Năm 713, Mai Thúc Loan, dùng thế “Liên Hoành” với các nước Champa, Chân Lạp, đã đánh tan tác quan quân nhà Đường ở Giao Châu. Nhà Đường phải cử tướng thiện chiến Dương Thừa Húc đem 10 vạn quân sang Giao Châu mới đàn áp được cuộc khởi nghĩa này.
Sự quật khởi chống xâm lăng của nhân dân ta luôn nung nấu và tiếp tục. Năm 791, Phùng Hưng khởi nghĩa đem quân bao vây thành Tống Bình là thủ phủ của giặc. Đô hộ An Nam là Cao Chính Bình nghe tiếng hò hét: “Đánh đuổi quân xâm lược” vang dậy ngoài thành, nên sợ đến nỗi hốt hoảng mà chết. Phùng Hưng vào thành, phủ dụ muôn dân. Rõ ràng, lòng dân khi hợp nhất, thì bẻ gãy bất cứ sự cai trị tàn ác nào.
.
Cảm phục: Bố Cái Đại Vương
.
Đồng bào cơ cực, xốn xang lòng!
Đánh đuổi xâm lăng, tha thiết mong!
Tướng sĩ kiên trung, cùng quyết chiến
Nghĩa quân, mạnh mẽ tiến xung phong
Vững vàng, hăng hái, ta toàn thắng
Hiểm hóc, rụt rè, giặc bại vong
Bố Cái Đại Vương lồng nhật nguyệt
Bao lần hiển thánh giúp non sông
Nguyễn Lộc Yên
BỐ CÁI ĐẠI VƯƠNG: PHÙNG HƯNG
(761 - 802)
Truyền thuyết kể rằng: Phùng Hạp Khanh, đã tham gia cuộc khởi nghĩa của Mai Hắc Đế, sau đó, về quê ở Đường Lâm, Sơn Tây, lo làm ăn trở nên giàu có. Phùng Hạp Khanh có 3 người con trai: Phùng Hưng, tự Công Phấn, Phùng Hải tự Tư Hào và Phùng Dĩnh tự Danh Đạt. Trong ba anh em, anh cả Phùng Hưng là người khí phách phi thường; Phùng Hưng nối nghiệp cha trở thành hào trưởng ở Đường Lâm. Ông đã giết hổ dữ để giúp dân làng được bình yên, nên nhân dân luôn mến mộ.
Năm 767, Cao Chính Bình, hiệu úy châu Vũ Định, giúp kinh lược sứ An Nam là Trương Bá Nghi đánh bại được cuộc xâm lược của quân Chà Và (Java) ở Chu Diên, sau đó được cử làm đô hộ An Nam. Hắn đánh sưu cao thuế nặng, vơ vét của cải nhân dân. Không thể nhẫn nhịn được, Phùng Hưng giương cờ khởi nghĩa ở Đường Lâm. Xưng là: Đô quân, Phùng Hải xưng Đô Bảo và Phùng Dĩnh xưng Đô Tổng, chia quân đi trấn giữ các nơi hiểm yếu. Cao Chính Bình tiến quân đánh, nghĩa quân đã cầm cự hơn 20 năm bất phân thắng bại. Sau đấy, Phùng Hưng được Đỗ Anh Hàn là người mưu lược trợ giúp. Đến tháng 4 năm 791, lực lượng đã phát triển hùng mạnh, từ chỗ cầm cự, đến tấn công. Ông cùng các tướng: Phùng Hải, Phùng Dĩnh, Đỗ Anh Hàn, Bồ Phá Cần, chia quân làm 5 đạo vây đánh thành Tống Bình. Cao Chính Bình đem quân ra nghinh chiến, giằng co, xung sát liên tục 7 ngày, giặc bị bại, nên đóng cửa thành cố thủ, sau đó Cao Chính Bình lo sợ quá mà bệnh chết.
Phùng Hưng vào thành phủ dụ dân chúng, quân dân tôn ông lên làm vua. Đồng bào quá cảm kích người đức độ, thương dân, nên gọi ông là Bố Cái Đại Vương, có nghĩa: Bố là Cha, Cái là Mẹ (Vị vua thương dân như cha mẹ thương con). Tuy nhiên, trong Việt giám thông khảo tổng luận, sử thần Lê Tung (thời Lê) lại gọi: “Phùng Bố Cái”; nghĩa chữ “Bố” là: vua (Bua - Bố), và “Cái” là: Lớn. Nghĩa “Bố Cái”, tiếng Nôm là “ Vua Lớn”, cùng nghĩa với từ “Đại Vương” trong tiếng Việt Nho, mà người đời thường dùng chỉ vị vua vĩ đại?!. Ông làm vua được mấy năm thì bị bệnh rồi băng hà vào năm 802. Quân dân lập đền thờ ông ở nhiều nơi. Con trai của ông là Phùng An lên nối nghiệp.
Theo truyền thuyết, sau này ông thường hiển thánh giúp dân lành, khi bị thiên tai như bão lụt, và ông đã hiển linh giúp Ngô Quyền đại phá quân Nam Hán ở trận Bạch Đằng giang. Ngô Quyền sau khi phá xong quân Nam Hán, ổn định tình hình đất nước, liền cho lập đền thờ ông ở Đường Lâm rất đồ sộ.
*- Thiển nghĩ: Nhà Đường đã củng cố sự cai trị, cho xây cất thành trì và quân phòng thủ ở Tống Bình, thường xuyên có mặt 4.200 quân. Nhưng với chính sách sưu cao thuế nặng của chúng, người Giao Châu quật khởi không ngừng. Năm 687, Lý Tự Tiên cùng nhân dân quật khởi chống quan lại tham ô, quan đô hộ Lưu Diên Hựu đàn áp vừa xong. Thì Đinh Kiến khởi nghĩa, đem quân chiếm thành Tống Bình và giết được Lưu Diên Hựu. Nhà Đường phải cử Tào Trực Tĩnh đem quân từ Quế châu qua mới đàn áp được. Năm 713, Mai Thúc Loan, dùng thế “Liên Hoành” với các nước Champa, Chân Lạp, đã đánh tan tác quan quân nhà Đường ở Giao Châu. Nhà Đường phải cử tướng thiện chiến Dương Thừa Húc đem 10 vạn quân sang Giao Châu mới đàn áp được cuộc khởi nghĩa này.
Sự quật khởi chống xâm lăng của nhân dân ta luôn nung nấu và tiếp tục. Năm 791, Phùng Hưng khởi nghĩa đem quân bao vây thành Tống Bình là thủ phủ của giặc. Đô hộ An Nam là Cao Chính Bình nghe tiếng hò hét: “Đánh đuổi quân xâm lược” vang dậy ngoài thành, nên sợ đến nỗi hốt hoảng mà chết. Phùng Hưng vào thành, phủ dụ muôn dân. Rõ ràng, lòng dân khi hợp nhất, thì bẻ gãy bất cứ sự cai trị tàn ác nào.
.
Cảm phục: Bố Cái Đại Vương
.
Đồng bào cơ cực, xốn xang lòng!
Đánh đuổi xâm lăng, tha thiết mong!
Tướng sĩ kiên trung, cùng quyết chiến
Nghĩa quân, mạnh mẽ tiến xung phong
Vững vàng, hăng hái, ta toàn thắng
Hiểm hóc, rụt rè, giặc bại vong
Bố Cái Đại Vương lồng nhật nguyệt
Bao lần hiển thánh giúp non sông
Nguyễn Lộc Yên
Gửi ý kiến của bạn