Hôm nay,  

Một Vài Kỷ Niệm Về Nhạc Sĩ Phạm Duy

02/02/201300:00:00(Xem: 6752)
Tin nhạc sĩ Phạm Duy từ giã nhân gian ở tuổi 92 tại Sài Gòn ngày 27/1/2013 gây xôn xao trong lòng người yêu nhạc Việt Nam, riêng tôi lòng cũng thoáng bồi hồi. Gọi điện thoại cho bằng hữu âm nhạc, để nghe nói cảm tưởng về người nhạc sĩ này.

Ngọc Trọng kể rằng nhạc sĩ Văn Phụng đã từng ca ngợi tài năng của Phạm Duy, nhạc sĩ Nguyễn Hiền bảo rằng sau khi qua Pháp học dự thính tại trường nhạc ở Paris trong hai năm thì những sáng tác của họ Phạm trở nên xuất sắc hơn so với bạn bè trong giới. Bạn tôi cho rằng cao điểm của những ca khúc PD vẫn là trước năm 1975, và anh ca ngợi những bài hát phổ thơ rất tuyệt vời của ông, cho những học hỏi về kỹ thuật chuyển cung tài tình trong sáng tác.

Cuộc sống của Phạm Duy từ năm 1975 cho đến 2005 gắn liền với quận Cam Nam Cali được gọi là thủ đô âm nhạc của hải ngoại, nơi có hàng trăm ngàn đồng hương Việt Nam cư ngụ. Suốt 30 năm ông từng đi nhiều nơi để trình diễn và giới thiệu những ca khúc mới cho nên rất nhiều người có kỷ niệm văn nghệ với ông. Tại San Jose, ông cũng xuất hiện nhiều lần tại những quán cà phê hoặc tại tư gia, gặp gỡ giới yêu nhạc.

Tôi được hân hạnh diện kiến người nhạc sĩ tài hoa, ông tuổi bằng cha mẹ mình, nhưng trong câu chuyện Phạm Duy rất sôi nổi trẻ trung và cởi mở. Ông nói năng thoải mái, có lúc hứng chí không cần giữ gìn ý tứ, cho nên người nghe rất thú vị. Nếu ghi lại trên báo chí thì không nên vì có những câu nói ngẫu hứng chỉ thích hợp lúc đó mà thôi.

Một lần tôi mời ông đi ăn sáng, ăn xong ông bảo chở về nhà để ông tập thể dục và nói là đây là kỷ luật để giữ gìn sức khỏe. Là một nhạc sĩ có đến ngàn ca khúc nhưng ông không hút thuốc, uống rượu. Đây là một điều hữu ích mà tôi biết được ở nhạc sĩ Phạm Duy, và cũng là lý do để ông sống thọ và khỏe mạnh để làm việc.

Điều thứ nhì để bắt chước là sự làm việc không mệt mỏi của ông. Ông học cách sử dụng máy vi tính để chép nhạc, để viết những bài khảo cứu âm nhạc. Kiến thức về văn hóa ông rất rộng rãi, dù sao thì ông cũng xuất thân từ dòng dõi trí thức nổi tiếng của đất Hà Thành. Đọc những bài viết sau này về sự ra đời các ca khúc của ông thì càng hiểu thêm về lịch sử, về kỹ thuật sáng tác. Có một lần ông đưa ra câu định nghĩa rằng nhạc sĩ chuyên nghiệp thì phải làm ra tiền bằng nhạc của mình, chứ sáng tác khơi khơi thì chỉ là vui chơi mà thôi. Tôi nghĩ trong suốt ba chục năm ở hải ngoại, ông sống bằng nghề âm nhạc và đây là lý do để nói Phạm Duy là một nhạc sĩ chân chính.

Một lần ghé phòng thu âm của Duy Quang chơi, nghe tiếng một ca sĩ hát một bài nhạc Nhật lời Việt rất bóng bẩy, tôi hỏi là ai đặt lời mà hay vậy thì Duy Quang cười bảo là của bố già chứ còn ai nữa. Nhắc chuyện này để ghi nhận thêm về tài đặt lời Việt cho hàng trăm bài nhạc ngoại quốc của ông, bản Tango nổi tiếng thế giới La Cumparsita ông dịch là Vũ Nữ Thân Gầy, thật bay bướm.

Năm 1995 tôi lần đầu về thăm Việt Nam có ghé tụ điểm ca nhạc và khi trở lại Mỹ tôi có gọi điện thoại kể cho ông nghe. Ông hỏi là có nghe ai hát nhạc Phạm Duy ở trong nước không, tôi bảo là không một bài nào được nhắc tới mặc dù có vài bài như Mộng Dưới Hoa được ca sĩ trình diễn nhưng không giới thiệu tác giả. Mười năm sau 2005 Phạm Duy trở về cố hương.

Cho đến khi ông mất thì nhà nước chỉ cho phép trình diễn mấy chục ca khúc của ông mà thôi. Trong di chúc ông để lại lá thư xin được cho phổ biến hai trường ca Con Đường Cái Quan và Mẹ Việt Nam và đặc biệt bài hát Việt Nam Việt Nam. Dù sao thì mục đích trở về của ông đã đạt một phần nào, khán giả yêu nhạc được thưởng thức một số ca khúc của Phạm Duy.

Viết về Phạm Duy thì rất nhiều người mọi giới. Riêng tôi thì những ca khúc phổ thơ tuyệt vời của ông vẫn là điều đáng nhớ nhất. Cái con mắt tinh anh biết chọn những bài thơ để phổ nhạc và đưa bài thơ đi xa làm thi sĩ nổi tiếng thêm và cũng làm giàu gia tài âm nhạc của mình và để lại cho hậu thế những bài học mẫu khi muốn đưa thơ vào nhạc.

Có những bài thơ ông giữ nguyên như Ngậm Ngùi của Huy Cận, có những bài thơ lấy vài câu như Thuyền Viễn Xứ ( thơ Huyền Chi ) và thêm thắt ý mình và sửa đổi câu thơ cho vừa vặn khuôn khổ ca khúc trong đó có Tiếng Sáo Thiên Thai ( thơ Thế Lữ), Nụ Tầm Xuân ( ca dao ), Tiễn Em ( thơ Cung Trầm Tưởng), Còn Chút Gì Để Nhớ ( thơ Vũ Hữu Định), Thà Như Giọt Mưa ( thơ Nguyễn Tất Nhiên), Ngày Xưa Hoàng Thị ( thơ Phạm Thiên Thư), Kỷ Vật Cho Em ( thơ Linh Phương), Đừng Bỏ Em Một Mình ( thơ Minh Đức Hoài Trinh ) , Áo Anh Sứt Chỉ Đường Tà ( thơ Hữu Loan), Ta Yêu Em Lầm Lỡ ( thơ Đỗ Văn Trương)...

Nếu hỏi chỉ một bài của Phạm Duy để đưa ra ca ngợi thì đó là Tình Hoài Hương, lời đậm đà tình yêu quê hương, dòng nhạc tha thiết và có những khúc chuyển cung rất khéo.

Năm 1973, Nguyễn Trọng Văn trong nhóm Văn Mới có in cuốn sách Phạm Duy Đã Chết Như Thế Nào và tổ chức nói chuyện tại đại học Văn Khoa Sài Gòn mời Phạm Duy tới nghe. Từ đó cho đến mấy chục năm nay Phạm Duy vẫn sống vẫn hăng say sáng tác nghiên cứu âm nhạc. Và hôm nay thì ông đâ thật sự ra đi, có người thấy bình thường vì ông quá thọ cũng phải theo định luật sinh diệt, nhưng cũng có người thấy xúc động vì ông vẫn hăng say sáng tác như thời trẻ. Ông nằm xuống thì những thị phi về cuộc đời sôi nổi của ông dần dần sẽ phai theo thời gian, chỉ còn lại những ca khúc trong lòng giới yêu nhạc.

Chín mươi hai năm trần thế thì ba chục năm hải ngoại, hơn hai chục năm vào sinh hoạt ở Miền Nam, hầu hết những sáng tác của Phạm Duy được sinh ra ở miền đất tự do văn nghệ. Chính mảnh đất tự do văn hóa văn nghệ của Miền Nam và hải ngoại đã nở ra nhiều đóa hoa hương sắc cung cấp cho kho tàng âm nhạc Việt Nam giàu có , trong những đóa hoa văn nghệ đẹp đó có một đóa hoa rất rực rỡ mang tên Phạm Duy.

California, 1 tháng 2, 2013

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
Hí viện Crocus City Hall, cách Kremlin 20 km, hôm 22 tháng O3/2024, đang có buổi trình diển nhạc rock, bị tấn công bằng súng và bom làm chết 143 người tham dự và nhiều người bị thương cho thấy hệ thống an ninh của Poutine bất lực. Trước khi khủng bố xảy ra, tình báo Mỹ đã thông báo nhưng Poutine không tin, trái lại, còn cho là Mỹ kiếm chuyện khiêu khích...
Khi Việt Nam nỗ lực thích ứng với môi trường quốc tế ngày càng cạnh tranh hơn, giới lãnh đạo đất nước đã tự hào về “chính sách ngoại cây giao tre” đa chiều của mình. Được Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), thúc đẩy từ giữa thập niên 2010, ý tưởng là bằng cách cân bằng mối quan hệ của Việt Nam với các cường quốc – không đứng về bên nào, tự chủ và thể hiện sự linh hoạt – nó có thể duy trì sự trung gian và lợi ích của mình, đồng thời tận dụng các cơ hội kinh tế do tình trạng cạnh tranh của các đại cường tạo ra
Cộng sản Việt Nam khoe có tự do tôn giáo ở Việt Nam, nhưng Hoa Kỳ và Thế giới nói “rất hạn chế”, tùy nơi và từng trường hợp. Tình trạng này đã giữ nguyên như thế trong những báo cáo trước đây của cả đôi bên. Nhưng tại sao Hoa Kỳ vẫn liệt Việt Nam vào danh sách phải “theo dõi đặc biệt”...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.