BÁT NẠN CÔNG CHÚA
(17 - 43)
Bà Bát Nạn (có sách ghi Bát Nàn), còn gọi là Thục Nương, quê huyện Lập Thạch, Vĩnh Phúc. Thân phụ là Võ Công Chất, một hào trưởng thương dân. Bát Nạn có tiếng là người tài sắc, nên hào mục họ Trần tìm người mai mối, nhưng bà từ chối. Sau đấy bà thành hôn với Phạm Danh Hương là người nho nhã, ghét ác tế bần. Hào mục họ Trần tức tối, đi vu cáo với Thái thú Tô Định, rồi cả hai hầm rập đem quân đến bao vây nhà bà vào năm Kỷ hợi (39 SCN). Bà vung đao xông phá được trùng vây, nhưng chồng của bà bị chúng bắt rồi giết.
Bà phải lặn lội đến một ngôi chùa ở làng Tiên La nương náu. Từ đó bà trau dồi thêm võ nghệ, kết nạp hào kiệt chờ ngày trả thù nhà, nợ nước. Mùa xuân năm 40, Bà Trưng giương cờ khởi nghĩa, bà theo về nhận chức tiên phong, cầm quân diệt giặc, lập được nhiều chiến công hiển hách. Nên sau khi Bà Trưng lên ngôi, phong bà: Bát Nàn Đại tướng quân Trinh Thục Công chúa. Bà nói: “Bẩm Trưng vương, công danh phú quí tôi không màng, lúc bình tôi vào chùa tu hành, nhưng khi có giặc ngoại xâm, tôi sẵn sàng ra trận giúp nước”. Rồi đem đầu giặc tế chồng, xong trở lại chùa tu hành.
Năm 41, quân Tàu lại đem quân xâm lăng nước ta. Như lời hứa, bà thay áo cà sa, mặc lại chiến bào chống giặc. Đáng tiếc, quân ta anh dũng, nhưng binh ít, thế cô, Hai Bà Trưng tử tiết nơi Hát Giang ngày 6-2-43 (ÂL). Bà tiếp tục chiến đấu với giặc mấy trận nữa, nhưng thế yếu, nên ngày16-3-Quí mão (năm 43-SCN), bà tuẫn tiết.
Nơi chùa Nam Liên có câu đối ca tụng công đức của bà:
“Vị quốc nguyên khu, quắc thước quần thoa binh Bắc khấu.
Xuất gia đầu Phật, anh hoa khí tiết bạn Nam Liên.”
Nghĩa là: Liễu yếu thiết tha trừ giặc Bắc
Phật gia son sắt chốn chùa Nam
Cảm mộ: Bát Nàn Công Chúa
Giặc đã giết chồng, chẳng hãi hùng
Anh thư khởi nghĩa, trả thù chung
Vung gươm diệt giặc, rền trời đất
Nghĩa nước, sư cô há lạnh lùng?!
CAO DOÃN
(? - 43)
Thân phụ ông làm huyện lệnh, tính tình khẳng khái trung hậu, thương dân, nên Thái thú nhà Hán là Tô Định tìm cách hãm hại và giết chết. Lúc ấy ông mới 5 tuổi, mẹ con ông phải dìu dắt đến Bảo Tháp thuộc hạt Gia Bình, nhờ hào phú Nguyễn Công Tín có lòng hào hiệp giúp đỡ.
Chẳng bao lâu mẹ ông qua đời, ông vẫn ở nhờ nhà Nguyễn Công Tín, khi ông lớn lên, rất khôi ngô và thông minh xuất chúng, nên ông Tín thương tình cho học cả văn võ và gả con gái út là Nguyễn Đào Nương cho ông. Trong khi ấy Tô Định được tin Nguyễn Đào Nương chẳng những nhan sắc mặn mà, mà còn có tài văn võ, nên cho quân đến rước về dinh.
Ông Tín từ chối, nên bị Tô Định bắt giết chết. Vợ chồng Cao Doãn chiêu mộ nghĩa binh khởi nghĩa. Nghe tin Bà Trưng cũng khởi nghĩa chống ngoại xâm, thế lực hùng hậu, vợ chồng ông đem binh mã về giúp bà Trưng. Ông được phong Đại tướng, lãnh ấn điều khiển cả thuỷ lục quân.
Năm 40 (SCN), quân ta quét sạch bóng quân thù, Trưng Vương phong ông Đại vương, cai quản Hải Dương, cấp vùng Bảo Tháp cho vợ chồng ông, làm ấp ăn lộc.
Năm 43, quân Tàu lại kéo sang xâm lược, Trưng Vương tuẫn tiết, vợ ông chiến đấu anh dũng và lẫm liệt hy sinh. Ông bị thương nặng, khi về đến Bảo Tháp, được nhân dân tận tình săn sóc, nhưng ông vẫn mất vào ngày 20-7-Quý Mẹo (43 ).
Nhân dân nhớ ơn người anh hùng dân tộc, đã lập đền thờ ông nơi đây. Thời thập nhị sứ quân, Đinh Bộ Lĩnh có đến miếu ông dâng hương, đến khi lên ngôi truy tặng ông “Linh Ứng Thần” và ban cho dân Bảo Tháp một số tiền để sửa sang miếu.
Cảm mộ: Cao Doãn
Giặc giết phụ thân, phận nổi trôi
Hận quân tàn bạo, nguyện cùng trời
Miệt mài văn võ, trừ xâm lược
Quật khởi, quyết tâm cứu giống nòi.
Nguyễn Lộc Yên
(17 - 43)
Bà Bát Nạn (có sách ghi Bát Nàn), còn gọi là Thục Nương, quê huyện Lập Thạch, Vĩnh Phúc. Thân phụ là Võ Công Chất, một hào trưởng thương dân. Bát Nạn có tiếng là người tài sắc, nên hào mục họ Trần tìm người mai mối, nhưng bà từ chối. Sau đấy bà thành hôn với Phạm Danh Hương là người nho nhã, ghét ác tế bần. Hào mục họ Trần tức tối, đi vu cáo với Thái thú Tô Định, rồi cả hai hầm rập đem quân đến bao vây nhà bà vào năm Kỷ hợi (39 SCN). Bà vung đao xông phá được trùng vây, nhưng chồng của bà bị chúng bắt rồi giết.
Bà phải lặn lội đến một ngôi chùa ở làng Tiên La nương náu. Từ đó bà trau dồi thêm võ nghệ, kết nạp hào kiệt chờ ngày trả thù nhà, nợ nước. Mùa xuân năm 40, Bà Trưng giương cờ khởi nghĩa, bà theo về nhận chức tiên phong, cầm quân diệt giặc, lập được nhiều chiến công hiển hách. Nên sau khi Bà Trưng lên ngôi, phong bà: Bát Nàn Đại tướng quân Trinh Thục Công chúa. Bà nói: “Bẩm Trưng vương, công danh phú quí tôi không màng, lúc bình tôi vào chùa tu hành, nhưng khi có giặc ngoại xâm, tôi sẵn sàng ra trận giúp nước”. Rồi đem đầu giặc tế chồng, xong trở lại chùa tu hành.
Năm 41, quân Tàu lại đem quân xâm lăng nước ta. Như lời hứa, bà thay áo cà sa, mặc lại chiến bào chống giặc. Đáng tiếc, quân ta anh dũng, nhưng binh ít, thế cô, Hai Bà Trưng tử tiết nơi Hát Giang ngày 6-2-43 (ÂL). Bà tiếp tục chiến đấu với giặc mấy trận nữa, nhưng thế yếu, nên ngày16-3-Quí mão (năm 43-SCN), bà tuẫn tiết.
Nơi chùa Nam Liên có câu đối ca tụng công đức của bà:
“Vị quốc nguyên khu, quắc thước quần thoa binh Bắc khấu.
Xuất gia đầu Phật, anh hoa khí tiết bạn Nam Liên.”
Nghĩa là: Liễu yếu thiết tha trừ giặc Bắc
Phật gia son sắt chốn chùa Nam
Cảm mộ: Bát Nàn Công Chúa
Giặc đã giết chồng, chẳng hãi hùng
Anh thư khởi nghĩa, trả thù chung
Vung gươm diệt giặc, rền trời đất
Nghĩa nước, sư cô há lạnh lùng?!
CAO DOÃN
(? - 43)
Thân phụ ông làm huyện lệnh, tính tình khẳng khái trung hậu, thương dân, nên Thái thú nhà Hán là Tô Định tìm cách hãm hại và giết chết. Lúc ấy ông mới 5 tuổi, mẹ con ông phải dìu dắt đến Bảo Tháp thuộc hạt Gia Bình, nhờ hào phú Nguyễn Công Tín có lòng hào hiệp giúp đỡ.
Chẳng bao lâu mẹ ông qua đời, ông vẫn ở nhờ nhà Nguyễn Công Tín, khi ông lớn lên, rất khôi ngô và thông minh xuất chúng, nên ông Tín thương tình cho học cả văn võ và gả con gái út là Nguyễn Đào Nương cho ông. Trong khi ấy Tô Định được tin Nguyễn Đào Nương chẳng những nhan sắc mặn mà, mà còn có tài văn võ, nên cho quân đến rước về dinh.
Ông Tín từ chối, nên bị Tô Định bắt giết chết. Vợ chồng Cao Doãn chiêu mộ nghĩa binh khởi nghĩa. Nghe tin Bà Trưng cũng khởi nghĩa chống ngoại xâm, thế lực hùng hậu, vợ chồng ông đem binh mã về giúp bà Trưng. Ông được phong Đại tướng, lãnh ấn điều khiển cả thuỷ lục quân.
Năm 40 (SCN), quân ta quét sạch bóng quân thù, Trưng Vương phong ông Đại vương, cai quản Hải Dương, cấp vùng Bảo Tháp cho vợ chồng ông, làm ấp ăn lộc.
Năm 43, quân Tàu lại kéo sang xâm lược, Trưng Vương tuẫn tiết, vợ ông chiến đấu anh dũng và lẫm liệt hy sinh. Ông bị thương nặng, khi về đến Bảo Tháp, được nhân dân tận tình săn sóc, nhưng ông vẫn mất vào ngày 20-7-Quý Mẹo (43 ).
Nhân dân nhớ ơn người anh hùng dân tộc, đã lập đền thờ ông nơi đây. Thời thập nhị sứ quân, Đinh Bộ Lĩnh có đến miếu ông dâng hương, đến khi lên ngôi truy tặng ông “Linh Ứng Thần” và ban cho dân Bảo Tháp một số tiền để sửa sang miếu.
Cảm mộ: Cao Doãn
Giặc giết phụ thân, phận nổi trôi
Hận quân tàn bạo, nguyện cùng trời
Miệt mài văn võ, trừ xâm lược
Quật khởi, quyết tâm cứu giống nòi.
Nguyễn Lộc Yên
Gửi ý kiến của bạn