1- Hình dáng và giáp giới của nước Việt Nam: Nước Việt Nam có hình như chữ S, ở khu vực Đông Nam Á, phía đông bán đảo Đông Dương. Nước VN ở toạ độ của kinh tuyến 102008 đến 109028 Đông, và vĩ tuyến 8002 đến 23023 Bắc. Nước VN phía bắc giáp Trung Hoa, đường biên 1.281 km. Tây giáp nước Lào đường biên 2.130 km, và Cao Miên đường biên dài 1.228 km. Phía nam giáp vịnh Thái Lan và phía đông giáp biển Đông, hai phía đông và nam của VN có biển bao bọc với chiều dài 3.444 km.
3- Diện tích nước Việt Nam: Diện tích đất liền VN là 329.245 km2. Nước Việt tính cả vùng lãnh hải, thì diện tích vùng biển của VN lớn bằng gấp 3 diện tích đất liền. Vậy diện tích VN, kể cả đất liền và vùng biển, sẽ vào khoảng 1.316.980 km2 (329.245x4).
4- Chiều dài và chiều rộng nước Việt Nam: Bờ biển Việt Nam dài 3.260 km, đường biên giới 4.510 km. Đất liền từ điểm cực bắc đến cực nam 1.650 km (đường chim bay). Chiều rộng từ đông sang tây: Nơi rộng nhất 600km (ở miền Bắc), 400km (ở miền Nam), và nơi hẹp nhất 50km (ở miền Trung, tỉnh Quảng Bình, thị xã Đồng Hới).
5- Bờ biển: Bờ biển Việt Nam theo công ước Quốc Tế, về luật biển (law of sea convention) vào năm 1982, gồm có 119 nước đã ký kết (trong đó có Trung Hoa và Việt Nam). Để tiện việc theo dõi, sau đây xin định nghĩa một số từ ngữ, có liên hệ về luật biển:
- Lãnh hải (Territorial Waters): Vùng biển ven bờ biển, thuộc chủ quyền của các quốc gia miền duyên hải, được Quốc tế quy định không quá 12 hải lý, tính từ đường cơ sở.
- Đường cơ sở (Baselines): Đường quy định, dọc theo bờ biển của các nước có bờ biển, từ đó tính chiều rộng lãnh hải, thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế.
- Hải lý (Nautical Mile): Đơn vị đo chiều dài trên mặt biển, 1 Hải lý bằng 1.852 km.
- Vùng đặc quyền kinh tế (exclusive economic zone), rộng 200 hải lý (khoảng 370 km). Trong 200 hải lý đó, quốc gia sở hữu được khai thác tài nguyên ở lòng biển và đánh cá (fishery zone)...
Ngoài khơi Việt Nam có khoảng 4.000 đảo lớn nhỏ, trong đó có các đảo Hoàng Sa và đảo Trường Sa
(*).
Đảo Hoàng Sa cách bờ biển Việt Nam khoảng 155 hải lý, cách bờ biển Trung Hoa khoảng 270 hải lý. Đảo Hoàng Sa ở vào vĩ tuyến 17
005-15045 Bắc. Đảo Hoàng Sa ở phía đông của tỉnh: Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi... Vùng hải đảo Hoàng Sa gồm 2 nhóm đảo quan trọng:
a- Nhóm Nguyệt Thiềm (Crescent) gồm có: Hoàng Sa (Pattel), có diện tích (dt) 0,56 km
2. Cam Tuyền (Robert), có dt. 0.32 km2. Duy Mộng (Drumond) dt. 0.41 km2.
b- Nhóm đảo Tuyên Đức (Amphitrite) gồm có: Đảo Phú Lâm (Woody Island), có dt. 1.32 km2 và nhiều đảo nhỏ khác.
Đảo Trường Sa cách bờ biển Việt Nam khoảng 190 hải lý, cách bờ biển Trung Hoa khoảng 750 hải lý. Quần đảo Trường Sa có khoảng trên 500 đảo, nằm rải rác từ Việt Nam đến Phi Luật Tân, trong đó có 9 đảo lớn. Đảo lớn nhất là Trường Sa (Spartley) có diện tích 0.175 km2, ở đảo này có nhiều chim trú ngụ, có nhiều cây, có những cây dừa có trái. Trong số trên 500 đảo ấy, có vô số cồn, đá, bãi và nhiều bãi ngầm. Đảo Trường Sa ở vào vĩ tuyến 17000-15000 Bắc, dọc theo bờ biển Việt Nam từ tỉnh Khánh Hoà đến Cà Mau.
Đặc biệt bờ biển Việt Nam thoai thoải, trải dài từ bờ ra tận ngoài khơi, bản đồ địa chất đã cho thấy Biển Việt Nam là sự nối tiếp địa hình đất liền chạy dài ra biển, không có sự ngăn cách những rãnh biển sâu (trench, trough). Bờ biển Việt Nam không giống như bờ biển bao quanh phía Nam của Nam Dương hay Phi Luật Tân, đã bị rãnh sâu ngăn cách. Vì vậy hải phận của Việt Nam, nếu vùng đặc quyền kinh tế nới rộng hơn 200 hải lý là điều hợp lý; ví dụ: Thềm lục địa và hải phận kinh tế VN rộng đến 350 hải lý, là hợp lẽ hơn bất cứ quốc gia nào khác trong vùng. Cũng từ bản đồ địa chất cho thấy phía bắc của Hoàng Sa có một vùng biển sâu (trench) ngăn chận thềm lục địa của Tàu. Do đó nước Tàu không có điều kiện gì để tuyên bố việc nối dài hải phận “lưỡi bò” ngược ngạo của họ.
6- Vịnh Cam Ranh: Vịnh Cam Ranh là một trong 3 hải cảng tốt nhất thế giới: Cam Ranh, San Francisco và Rio de Janeiro. Vì có đầy đủ những ưu thế về chiến lược và địa lý. Vịnh Cam Ranh, được hai nhánh núi che chắn tạo thành, ngoài cửa vịnh có các đảo và cù lao chắn gió, nên bên trong vịnh luôn gió yên sóng lặng, tàu đậu rất êm ả. Vịnh Cam Ranh có thể tàu ra vào với trọng tải 100.000 tấn. Vịnh Cam Ranh có địa thế yếu hiểm, cửa vào vịnh thu nhỏ, nên kẻ thù khó tấn công, ta dễ phòng thủ. Ai làm chủ vịnh Cam Ranh có thể khống chế được toàn khu vực biển Đông. Vào thế kỷ 19, chính quyền thực dân Pháp đã xây dựng vịnh Cam Ranh thành quân cảng. Năm 1940, quân đội Nhật xâm chiếm Đông Dương đã xử dụng cảng Cam Ranh làm nơi xuất phát của hải quân Nhật Bản.
Thời chiến tranh vào thập niên 1960-1970, vịnh Cam Ranh là một trong những căn cứ quân sự quan trọng nhất của VNCH và của quân đội Hoa Kỳ. Năm 1965, Hoa Kỳ xây dựng vùng vịnh Cam Ranh trở thành căn cứ quân sự phối hợp các lực lượng Hải, Lục và Không quân, có khu tiếp vận lớn nhất Đông Nam Á. Nơi đây là căn cứ tiếp liệu, khí tài quân sự cho chiến tranh Việt Nam. Trong chiến tranh VN, quân đội Hoa Kỳ đã phát triển và củng cố vững quân cảng này. Năm 1973, sau hiệp định Paris, Hoa Kỳ đã trả lại vịnh Cam Ranh cho VNCH.
Đã có nhiều quốc gia chú ý đến cảng Cam Ranh, đấy là những quốc gia mong muốn vì lợi ích thiết thực trong việc duy trì quyền tự do thông thương trên biển Đông. Sự hiện diện các tàu quốc tế tại cảng Cam Ranh, sẽ nâng cao vị thế chiến lược và giao thương của VN. Vịnh Cam Ranh chiếm một vị trí trung tâm trong chiến lược của VN, là căn cứ tốt để chống lại tham vọng bành trướng của Trung Cộng, trong cuộc
tranh chấp về chủ quyền tại Biển Đông. Vịnh Cam Ranh là một trong những huyết mạch lưu thông hàng hải trên thế giới.
Năm 1979, sau cuộc chiến biên giới Việt-Hoa, Nga Sô thuê vịnh Cam Ranh thời gian 25 năm. Nga cho xây thêm cầu tàu và kéo dài phi đạo. Năm 1991, Liên bang Sô Viết bị sụp đổ, đến năm 2002, hải quân Nga Sô rút khỏi Cam Ranh, trước thời hạn đã hợp đồng. Trung quốc luôn mong muốn thuê Cam Ranh, hy vọng Hà Nội đủ sáng suốt, không để quân xâm lược Tàu cộng chiếm quân cảng quan trọng này.
7- Sông suối: Nước Việt Nam có 2.860 con sông, có chiều dài từ 10 km trở lên, các sông lớn của Việt Nam là sông Hồng, sông Thái Bình ở miền Bắc. Sông Cửu Long, sông Đồng Nai ở miền Nam. Sông ở miền Trung thì ngắn và dốc, nước trong và ít phù sa. Việt Nam có nhiều khe suối chằng chịt khắp nơi.
8- Núi non: Núi chiếm khá lớn diện tích đất trên lãnh thổ Việt Nam. Các núi ở miền Bắc rất cao, như núi Phăng Xi Păn ở Lào Cai cao 3.143m. Núi ở Việt Nam, cao ở hướng tây bắc rồi thấp dần xuống đông nam, thoai thoải ra biển. Những dãy núi kéo dài ra khơi, tạo thành những cụm đảo, như đảo ở Vịnh Hạ Long (Quảng Ninh). Xen lẫn các dãy núi cao là cao nguyên đá vôi rộng lớn, như dãy cao nguyên đá vôi chạy dọc theo thung lũng sông Đà. Núi ở miền Bắc và Đông Bắc có dạng hình cánh cung. Các cánh cung đó là: Ngân Sơn, Bắc Sơn và Đông Triều, đều chụm lại ở Tam Đảo.
Miền Trung có dãy Trường Sơn chạy dài từ bắc xuống nam, sườn phía đông dốc xuống biển, sườn phía tây thoai thoải đến thung lũng sông Mê Kông. Phía đông của Nam Trung Bộ, các dãy núi nam Trường Sơn đâm ngang, chia cắt thành những ô nhỏ, phần còn lại ở phía nam là vùng đồng bằng rộng lớn. Miền Nam có nhiều rừng ít có núi, và núi thâm thấp như: Núi Bà Đen, Thất Sơn...
9- Rừng rú: Rừng ở Việt Nam là rừng ở vùng nhiệt đới, nên rậm rạp. Ven biển và miền Tây Nam Bộ là rừng ngập mặn với các loại cây: Đước, sú, vẹt... Do sự khai phá rừng bừa bãi, nên rừng ở Việt Nam còn khoảng 30% diện tích toàn lãnh thổ, rừng núi bị thưa thớt, đồi trọc, rất dễ bị ngập lụt. Những loại gỗ quí khó bảo tồn, các loại thú quí hiếm, có nguy cơ bị tiệt chủng.
10- Người Việt Nam: Người VN có khoảng 54 sắc dân, trong đó có 53 sắc dân thiểu số, chiếm khoảng 14% tổng số dân của cả nước. Người Việt thuần tuý (người Kinh) chiếm khoảng 86%, tập trung ở các miền châu thổ hay nơi đồng bằng ven biển. Những sắc dân thiểu số, phần lớn đều tập trung ở các vùng miền núi và cao nguyên; ngoại trừ người Chăm, người Khmer và người Hoa sinh sống ở đồng bằng. Trong số các sắc dân thiểu số, đông dân nhất là các sắc dân: Tày, Mường, Thái, Hoa, Khmer, Nùng..., mỗi sắc dân có dân số khoảng một triệu người. Các sắc dân: Chứt, Ê Đê, Sán Dìu... thì dân số ít hơn. Có một số sắc dân thiểu số đã định cư trên lãnh thổ Việt Nam từ lâu đời, nhưng cũng có các sắc dân chỉ mới di cư vào Việt Nam trong vài trăm năm trở lại đây.
Việt Nam là một nước đông dân, tuy diện tích đứng hạng thứ 65 trên thế giới, nhưng dân số lại xếp thứ 13. Theo điều tra của Tổng cục thống kê Việt Nam, tính đến năm 2011, là 87.840.000 người. Mật độ: 259 người/km
2 (671/ square mile), Dân số khu vực thành thị chiếm khoảng 27 triệu người, chiếm 30,6% tổng dân số cả nước, dân số khu vực nông thôn và cao nguyên chiếm khoảng 70 triệu người, chiếm 69,4% tổng dân số cả nước.
(Còn Tiếp)
Nguyễn Lộc Yên
3- Diện tích nước Việt Nam: Diện tích đất liền VN là 329.245 km2. Nước Việt tính cả vùng lãnh hải, thì diện tích vùng biển của VN lớn bằng gấp 3 diện tích đất liền. Vậy diện tích VN, kể cả đất liền và vùng biển, sẽ vào khoảng 1.316.980 km2 (329.245x4).
4- Chiều dài và chiều rộng nước Việt Nam: Bờ biển Việt Nam dài 3.260 km, đường biên giới 4.510 km. Đất liền từ điểm cực bắc đến cực nam 1.650 km (đường chim bay). Chiều rộng từ đông sang tây: Nơi rộng nhất 600km (ở miền Bắc), 400km (ở miền Nam), và nơi hẹp nhất 50km (ở miền Trung, tỉnh Quảng Bình, thị xã Đồng Hới).
5- Bờ biển: Bờ biển Việt Nam theo công ước Quốc Tế, về luật biển (law of sea convention) vào năm 1982, gồm có 119 nước đã ký kết (trong đó có Trung Hoa và Việt Nam). Để tiện việc theo dõi, sau đây xin định nghĩa một số từ ngữ, có liên hệ về luật biển:
- Lãnh hải (Territorial Waters): Vùng biển ven bờ biển, thuộc chủ quyền của các quốc gia miền duyên hải, được Quốc tế quy định không quá 12 hải lý, tính từ đường cơ sở.
- Đường cơ sở (Baselines): Đường quy định, dọc theo bờ biển của các nước có bờ biển, từ đó tính chiều rộng lãnh hải, thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế.
- Hải lý (Nautical Mile): Đơn vị đo chiều dài trên mặt biển, 1 Hải lý bằng 1.852 km.
- Vùng đặc quyền kinh tế (exclusive economic zone), rộng 200 hải lý (khoảng 370 km). Trong 200 hải lý đó, quốc gia sở hữu được khai thác tài nguyên ở lòng biển và đánh cá (fishery zone)...
Ngoài khơi Việt Nam có khoảng 4.000 đảo lớn nhỏ, trong đó có các đảo Hoàng Sa và đảo Trường Sa
(*).
Đảo Hoàng Sa cách bờ biển Việt Nam khoảng 155 hải lý, cách bờ biển Trung Hoa khoảng 270 hải lý. Đảo Hoàng Sa ở vào vĩ tuyến 17
005-15045 Bắc. Đảo Hoàng Sa ở phía đông của tỉnh: Quảng Trị, Thừa Thiên, Quảng Nam, Quảng Ngãi... Vùng hải đảo Hoàng Sa gồm 2 nhóm đảo quan trọng:
a- Nhóm Nguyệt Thiềm (Crescent) gồm có: Hoàng Sa (Pattel), có diện tích (dt) 0,56 km
2. Cam Tuyền (Robert), có dt. 0.32 km2. Duy Mộng (Drumond) dt. 0.41 km2.
b- Nhóm đảo Tuyên Đức (Amphitrite) gồm có: Đảo Phú Lâm (Woody Island), có dt. 1.32 km2 và nhiều đảo nhỏ khác.
Đảo Trường Sa cách bờ biển Việt Nam khoảng 190 hải lý, cách bờ biển Trung Hoa khoảng 750 hải lý. Quần đảo Trường Sa có khoảng trên 500 đảo, nằm rải rác từ Việt Nam đến Phi Luật Tân, trong đó có 9 đảo lớn. Đảo lớn nhất là Trường Sa (Spartley) có diện tích 0.175 km2, ở đảo này có nhiều chim trú ngụ, có nhiều cây, có những cây dừa có trái. Trong số trên 500 đảo ấy, có vô số cồn, đá, bãi và nhiều bãi ngầm. Đảo Trường Sa ở vào vĩ tuyến 17000-15000 Bắc, dọc theo bờ biển Việt Nam từ tỉnh Khánh Hoà đến Cà Mau.
Đặc biệt bờ biển Việt Nam thoai thoải, trải dài từ bờ ra tận ngoài khơi, bản đồ địa chất đã cho thấy Biển Việt Nam là sự nối tiếp địa hình đất liền chạy dài ra biển, không có sự ngăn cách những rãnh biển sâu (trench, trough). Bờ biển Việt Nam không giống như bờ biển bao quanh phía Nam của Nam Dương hay Phi Luật Tân, đã bị rãnh sâu ngăn cách. Vì vậy hải phận của Việt Nam, nếu vùng đặc quyền kinh tế nới rộng hơn 200 hải lý là điều hợp lý; ví dụ: Thềm lục địa và hải phận kinh tế VN rộng đến 350 hải lý, là hợp lẽ hơn bất cứ quốc gia nào khác trong vùng. Cũng từ bản đồ địa chất cho thấy phía bắc của Hoàng Sa có một vùng biển sâu (trench) ngăn chận thềm lục địa của Tàu. Do đó nước Tàu không có điều kiện gì để tuyên bố việc nối dài hải phận “lưỡi bò” ngược ngạo của họ.
6- Vịnh Cam Ranh: Vịnh Cam Ranh là một trong 3 hải cảng tốt nhất thế giới: Cam Ranh, San Francisco và Rio de Janeiro. Vì có đầy đủ những ưu thế về chiến lược và địa lý. Vịnh Cam Ranh, được hai nhánh núi che chắn tạo thành, ngoài cửa vịnh có các đảo và cù lao chắn gió, nên bên trong vịnh luôn gió yên sóng lặng, tàu đậu rất êm ả. Vịnh Cam Ranh có thể tàu ra vào với trọng tải 100.000 tấn. Vịnh Cam Ranh có địa thế yếu hiểm, cửa vào vịnh thu nhỏ, nên kẻ thù khó tấn công, ta dễ phòng thủ. Ai làm chủ vịnh Cam Ranh có thể khống chế được toàn khu vực biển Đông. Vào thế kỷ 19, chính quyền thực dân Pháp đã xây dựng vịnh Cam Ranh thành quân cảng. Năm 1940, quân đội Nhật xâm chiếm Đông Dương đã xử dụng cảng Cam Ranh làm nơi xuất phát của hải quân Nhật Bản.
Thời chiến tranh vào thập niên 1960-1970, vịnh Cam Ranh là một trong những căn cứ quân sự quan trọng nhất của VNCH và của quân đội Hoa Kỳ. Năm 1965, Hoa Kỳ xây dựng vùng vịnh Cam Ranh trở thành căn cứ quân sự phối hợp các lực lượng Hải, Lục và Không quân, có khu tiếp vận lớn nhất Đông Nam Á. Nơi đây là căn cứ tiếp liệu, khí tài quân sự cho chiến tranh Việt Nam. Trong chiến tranh VN, quân đội Hoa Kỳ đã phát triển và củng cố vững quân cảng này. Năm 1973, sau hiệp định Paris, Hoa Kỳ đã trả lại vịnh Cam Ranh cho VNCH.
Đã có nhiều quốc gia chú ý đến cảng Cam Ranh, đấy là những quốc gia mong muốn vì lợi ích thiết thực trong việc duy trì quyền tự do thông thương trên biển Đông. Sự hiện diện các tàu quốc tế tại cảng Cam Ranh, sẽ nâng cao vị thế chiến lược và giao thương của VN. Vịnh Cam Ranh chiếm một vị trí trung tâm trong chiến lược của VN, là căn cứ tốt để chống lại tham vọng bành trướng của Trung Cộng, trong cuộc
tranh chấp về chủ quyền tại Biển Đông. Vịnh Cam Ranh là một trong những huyết mạch lưu thông hàng hải trên thế giới.
Năm 1979, sau cuộc chiến biên giới Việt-Hoa, Nga Sô thuê vịnh Cam Ranh thời gian 25 năm. Nga cho xây thêm cầu tàu và kéo dài phi đạo. Năm 1991, Liên bang Sô Viết bị sụp đổ, đến năm 2002, hải quân Nga Sô rút khỏi Cam Ranh, trước thời hạn đã hợp đồng. Trung quốc luôn mong muốn thuê Cam Ranh, hy vọng Hà Nội đủ sáng suốt, không để quân xâm lược Tàu cộng chiếm quân cảng quan trọng này.
7- Sông suối: Nước Việt Nam có 2.860 con sông, có chiều dài từ 10 km trở lên, các sông lớn của Việt Nam là sông Hồng, sông Thái Bình ở miền Bắc. Sông Cửu Long, sông Đồng Nai ở miền Nam. Sông ở miền Trung thì ngắn và dốc, nước trong và ít phù sa. Việt Nam có nhiều khe suối chằng chịt khắp nơi.
8- Núi non: Núi chiếm khá lớn diện tích đất trên lãnh thổ Việt Nam. Các núi ở miền Bắc rất cao, như núi Phăng Xi Păn ở Lào Cai cao 3.143m. Núi ở Việt Nam, cao ở hướng tây bắc rồi thấp dần xuống đông nam, thoai thoải ra biển. Những dãy núi kéo dài ra khơi, tạo thành những cụm đảo, như đảo ở Vịnh Hạ Long (Quảng Ninh). Xen lẫn các dãy núi cao là cao nguyên đá vôi rộng lớn, như dãy cao nguyên đá vôi chạy dọc theo thung lũng sông Đà. Núi ở miền Bắc và Đông Bắc có dạng hình cánh cung. Các cánh cung đó là: Ngân Sơn, Bắc Sơn và Đông Triều, đều chụm lại ở Tam Đảo.
Miền Trung có dãy Trường Sơn chạy dài từ bắc xuống nam, sườn phía đông dốc xuống biển, sườn phía tây thoai thoải đến thung lũng sông Mê Kông. Phía đông của Nam Trung Bộ, các dãy núi nam Trường Sơn đâm ngang, chia cắt thành những ô nhỏ, phần còn lại ở phía nam là vùng đồng bằng rộng lớn. Miền Nam có nhiều rừng ít có núi, và núi thâm thấp như: Núi Bà Đen, Thất Sơn...
9- Rừng rú: Rừng ở Việt Nam là rừng ở vùng nhiệt đới, nên rậm rạp. Ven biển và miền Tây Nam Bộ là rừng ngập mặn với các loại cây: Đước, sú, vẹt... Do sự khai phá rừng bừa bãi, nên rừng ở Việt Nam còn khoảng 30% diện tích toàn lãnh thổ, rừng núi bị thưa thớt, đồi trọc, rất dễ bị ngập lụt. Những loại gỗ quí khó bảo tồn, các loại thú quí hiếm, có nguy cơ bị tiệt chủng.
10- Người Việt Nam: Người VN có khoảng 54 sắc dân, trong đó có 53 sắc dân thiểu số, chiếm khoảng 14% tổng số dân của cả nước. Người Việt thuần tuý (người Kinh) chiếm khoảng 86%, tập trung ở các miền châu thổ hay nơi đồng bằng ven biển. Những sắc dân thiểu số, phần lớn đều tập trung ở các vùng miền núi và cao nguyên; ngoại trừ người Chăm, người Khmer và người Hoa sinh sống ở đồng bằng. Trong số các sắc dân thiểu số, đông dân nhất là các sắc dân: Tày, Mường, Thái, Hoa, Khmer, Nùng..., mỗi sắc dân có dân số khoảng một triệu người. Các sắc dân: Chứt, Ê Đê, Sán Dìu... thì dân số ít hơn. Có một số sắc dân thiểu số đã định cư trên lãnh thổ Việt Nam từ lâu đời, nhưng cũng có các sắc dân chỉ mới di cư vào Việt Nam trong vài trăm năm trở lại đây.
Việt Nam là một nước đông dân, tuy diện tích đứng hạng thứ 65 trên thế giới, nhưng dân số lại xếp thứ 13. Theo điều tra của Tổng cục thống kê Việt Nam, tính đến năm 2011, là 87.840.000 người. Mật độ: 259 người/km
2 (671/ square mile), Dân số khu vực thành thị chiếm khoảng 27 triệu người, chiếm 30,6% tổng dân số cả nước, dân số khu vực nông thôn và cao nguyên chiếm khoảng 70 triệu người, chiếm 69,4% tổng dân số cả nước.
(Còn Tiếp)
Nguyễn Lộc Yên
Gửi ý kiến của bạn