Hôm nay,  

Trưởng Lão Đại Sư Tây Tạng Choeje Ayang Rinpoche

30/11/201200:00:00(Xem: 12105)
Phổ Từ - MaiThy
(Dịch dựa theo bài viết của Lama Vincent. Từ Phổ Lạc hiệu đính.)

Ayang Rinpoche sanh trong một gia đình du mục ở miền Đông Tây Tạng. Phái đoàn các Trưởng Lão Lạt Ma , kể cả Gyalwang Karmapa Rangjung Rigpe Dorje thứ 16 và Yongzin Jabra Rinpoche đã kết luận rằng Ngài là hiện thân trí tuệ của Khai Mật Tạng Pháp Vương Rigzin Choegyal Dorje.

Có lẽ không một Lạt Ma Tây Tạng nào lại được đồng nhất tên tuổi của mình với sự truyền thừa của pháp môn Phowa đến Phương Tây như Trưởng Lão Đại Sư Ayang Rinpoche.

Ayang Rinpoche là Lạt Ma của dòng Drikung Kagyu, người nắm giữ cả hai dòng Nyingma và Drikung. Ngài tiếp tục một giòng truyền thừa không gián đoạn của các Lạt Ma thuộc dòng Drikung Phowa từ Guru Dorje Chang – Kim Cang Trì cho đến hiện kiếp. Ngài đã nhập thất miên mật để hành trì pháp môn Phowa và đã được khắp nơi công nhận như là một bậc Thầy của pháp môn Phowa. Ngài là Lạt Ma đầu tiên thuộc dòng Drikung rời khỏi Tây Tạng.

Mặc dù được tìm ra bởi một phái đoàn Trưởng Lão Lạt Ma rằng Ngài là hiện thân của Khai Mật Tạng Pháp Vương Rigzin Choegyal Dorje, Ayang Rinpoche vẫn muốn tìm ra thêm những hoạt động của Ngài trong tiền kiếp. May mắn thay, Khai Mật Tạng Pháp Vương Choegyal Dorje đã viết tiểu sử của ông ta trong suốt cuộc đời, và Ayang Rinpoche đã có được một bản sao của quyển sách này mà qua đó Ngài bắt đầu nghiên cứu về cuộc đời và hoạt động của hiện thân trước của Ngài.

Trong tiểu sử nầy, Choegyal Dorje (tức kiếp trước của Ayang Rinpoche) có đề cập đến Ngài là đệ tử của Đức Phật Thích Ca cách đây 2,500 năm.

Công hạnh của ngài đã được ghi nhận trong Kinh Ánh Sáng Hoàng Kim. Vào lúc đó Ngài đã là một vị Bồ Tát. Vị Bồ Tát đó tiếng Tây Tạng tên là Zippi Dok, tiếng Phạn là Ruchiraketu – Diệu Tràng.

Dựa theo Kinh Ánh Sáng Hoàng Kim, Bồ Tát Diệu Tràng lúc đó ở đỉnh núi Linh Thứu cùng với chúng hội và Ngài đã thỉnh vấn về lý do thọ mạng ngắn ngủi của Đức Phật Thích Ca. Ngài cũng đã kể lại cho Đức Phật Thích Ca về giấc mơ chiếc trống vàng của Ngài. Khi Ngài gõ trống, tiếng trống là âm thanh của sự sám hối tột bực và tịnh hóa ác nghiệp của quá khứ. Chúng ta có thể chuyển tải Kinh tối thượng xuống từ nơi sau đây:

http://www.fpmt.org/teachers/teachings/sutras/golden-light-sutra/download.html

Kinh này đã được dịch ra tiếng Anh, tiếng Tàu, tiếng Pháp, tiếng Đức, tiếng Nam Dương, tiếng Ý, tiếng Mông Cổ, tiếng Nepal, tiếng Bồ Đào Nha, tiếng Phạn, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Việt và tiếng Tây Tạng.

Trong tiểu sử của Choegyal Dorje, Ngài có nhắc đến Ngài là một trong 25 đệ tử chính của Guru Liên Hoa Sanh tên là Langdro Lotsawa. Trong suốt cuộc đời, Ngài đã dịch Phật Pháp từ tiếng Phạn sang tiếng Tây Tạng.

Trong một đời khác, Choegyal Dorje là đệ tử của Đức Milarepa tên là Repa Shiwa O, là một trong tám trưởng tử tâm huyết vĩ đại của Đức Milarepa. Miêu tả tóm tắt về lịch sử của Ngài có thể tìm thấy trong:

http://www.dzogchenmonastery.org/repa_shiwa_o.html

Ayang Rinpoche bảo rằng Ngài tự nhiên có lòng sùng tín đến Guru Liên Hoa Sanh và Đức Milarepa, và tin tưởng vào quyết định của vị Đạo Sư gốc của Ngài là His Holiness Karmapa đời thứ 16, nhưng làm thế nào Ngài có thể chắc chắn rằng Ngài chính là hóa thân của Khai Mật Tạng Pháp Vương Choegyal Dorje?

Trong tiểu sử của Choegyal Dorje có hai đoạn.

Nửa đoạn viết bằng tiếng Tây Tạng, nhưng nửa đoạn kia thì lại viết bằng một ngôn ngữ khác. Sau khi đã nghiên cứu nhiều, Ayang Rinpoche đã có thể xác định rằng nửa câu của mỗi đoạn được viết bằng ngôn ngữ của Dakini – Thiên Nữ. Khai Mật Tạng Đại Pháp Vương Choegyal Dorje đã viết tiểu sử của ông trong suốt cuộc đời, lồng vào trong đó là hai câu mà dường như không có ý nghĩa gì trong văn bản tiểu sử của Ngài.

Ayang Rinpoche đã tìm người có kiến thức về ngôn ngữ của Dakini- Thiên Nữ. Ngài nghe nói rằng Kamtrul Rinpoche người đang định cư tại Dharamsala có kiến thức về loại ngôn ngữ này. Vì thế Ayang Rinpoche đã đi đến Dharamsala để thỉnh cầu ý của Ngài. Khi Ayang Rinpoche gặp được Kamtrul Rinpoche thi Kamtrul Rinpoche đã khá lớn tuổi vào lúc đó và thị giác của ngài đã lệch lạc, tuy nhiên Ngài đã có thể đọc được hai câu và khẳng định rằng đó là tiếng Tây Tạng và ngôn ngữ của Dakini.

Câu thứ nhất, nửa câu đầu bằng tiếng Tây Tạng:
Tse Tsing Ma = Đời kế tiếp
Nửa câu sau bằng ngôn ngữ của Dakini
Ga Yu Ta Ji = Gayu là nơi sinh ra hoặc Gaba
Ta = Ngựa

Kamtrul Rinpoche nói với Ayang Rinpoche rằng nửa câu đầu rất rõ ràng Khai Mật Tạng Đại Pháp Vương Choegyal Dorje tiên đoán trước tái sanh kế tiếp của Ngài.

Nửa câu sau nói về “gayu”, Ayang Rinpoche có nhắc rằng ngài sanh ra tại một nơi gọi là Gaba. Vì thế Kamtrul Rinpoche đã khẳng định rằng hoặc là có một cái gì hay một nơi chốn nào đó gần Gaba có âm thanh “ta”. Ayang Rinpoche đã nói rằng không có bất cứ cái gì với âm thanh “ta” chung quanh nơi đó, nhưng Ngài sanh vào năm con ngựa, mà tiếng Tây Tạng gọi là “ta”. Vì thế, Kamtrul Rinpoche đã khẳng định câu thứ nhất nói rằng Choegyal Dorje sẽ tái sanh vào một nơi gọi là Gaba vào năm con ngựa.

Câu thứ nhì

Nửa phần đầu bằng tiếng Tây Tạng
Lam Samo = Pháp môn vi diệu Phowa
Nửa phần sau bằng ngôn ngữ của Dakini
Powin Da din jing = Sự thành công lớn lao

Ngay điểm này Kamtrul Rinpoche đã cho rằng dường như hai câu trên nói về Ayang Rinpoche. Tiên đoán sự ra đời và hoạt động pháp sau này của Ngài.

Với hai câu được viết trong suốt cuộc đời của Khai Mật Tạng Pháp Vương Choegyal Dorje trong hai ngôn ngữ khác nhau, Ngài đã tiên đoán sự tái sanh kế tiếp và hoạt động tương lai của Ngài. Vì thế điều nàykhẳng định không chút nghi ngờrằng Ayang Rinpoce chính là hiện thân của Choegyal Dorje.

Xuyên qua tiểu sử của Ngài bắt đầu với đản sanh của Đức Phật Thích Ca và Phật pháp cách đây 2,500 năm với tên là Đại Bồ Tát Ruchiraketu - Diệu Tràng. Tuy nhiên vào thời ấy Ngài đã là một vị Bồ Tát, có nghĩa là Ngài đã bận rộn với các hoạt động Phật Pháp trong nhiều kiếp không thể tính xuể.

Chúng ta thật là may mắn có thể tu học từ một vị Bồ Tát vĩ đại như Ayang Rinpoche và chúng ta nên trân quý từng câu mà Ngài đã dạy, và từng lúc mà chúng ta có thể hội ngộ với Ngài.

Như Ngài vẫn thường nói “ Chúng ta phải cố gắng ….”
Phổ Từ - MaiThy dịch dựa theo bài viết của Lama Vincent.
Từ Phổ Lạc – Tùng Vũ & Tâm Bảo Đàn hiệu đính.

(Nguồn: http://drikungvn.org)

GHI CHÚ:

Viet Nalanda Foundation tổ chức Khóa Tu Học Pháp Môn Phowa do Thầy Choeje Ayang Rinpoche truyền pháp, từ ngày 2-11/12, tại Hội Trường Văn Lang, 14861 Moran St, Westminster, CA 92683. L/L MaiThy (714) 443-1210, John Vu (714) 812-7117.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nếu Donald Trump giành lại được Nhà Trắng vào tháng 11, năm nay có thể đánh dấu một bước ngoặt đối với quyền lực của Mỹ. Cuối cùng, nỗi sợ hãi về tình trạng suy tàn đã khiến cho người Mỹ bận tâm kể từ thời thuộc địa sẽ được biện minh. Hầu hết người Mỹ tin rằng, Hoa Kỳ trong tình trạng suy tàn, Donald Trump tuyên bố rằng ông có thể “Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại”. Nhưng tiền đề của Trump đơn giản là sai, và các biện pháp trị liệu được ông đề xuất đặt ra mối đe dọa lớn nhất đối với nước Mỹ.
Đảng CSVN hay nói “Trí thức là “nguyên khí của quốc gia”, làm hưng thịnh đất nước, rạng rỡ dân tộc*; “Trí thức là vốn liếng quý báu của Dân tộc”; hay “Thanh niên là rường cột của nước nhà” , nhưng tại sao nhiều người vẫn ngại đứng vào hàng ngũ đảng? Lý do vì đảng chỉ muốn gom Trí thức và Thanh niên “vào chung một rọ để nắm tóc”...
Tây Bắc hay Tây Nguyên thì cũng chừng đó vấn đề thôi: đất đai, tôn giáo, chủng tộc… Cả ba đều bị nhũng nhiễu, lũng đoạn tới cùng, và bị áp chế dã man tàn bạo. Ở đâu giới quan chức cũng đều được dung dưỡng, bao che để tiếp tục lộng quyền (thay vì xét sử) nên bi kịch của Tây Nguyên (nói riêng) và Cao Nguyên (nói chung) e sẽ còn dài, nếu chế độ toàn trị hiện hành vẫn còn tồn tại...
Bữa rồi, nhà thơ Inra Sara tâm sự: “Non 30 năm sống đất Sài Gòn, tôi gặp vô số người được cho là thành công, thuộc nhiều ngành nghề, đủ lứa tuổi, thành phần. Lạ, nhìn sâu vào mắt họ, cứ ẩn hiện sự bất an, lo âu.” “Bất an” có lẽ không chỉ là tâm trạng của người Sài Gòn mà dường như là tâm cảm chung của toàn dân Việt – không phân biệt chủng tộc, giới tính hay giai cấp nào ráo trọi – nhất là những kẻ sắp từ giã cõi trần. Di Cảo của Chế Lan Viên và di bút (Đi Tìm Cái Tôi Đã Mất) của Nguyễn Khải, theo nhận xét của nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn, chỉ là những tác phẩm “cốt để xếp hàng cả hai cửa. Cửa cũ, các ông chẳng bao giờ từ. Còn nếu tình hình khác đi, có sự đánh giá khác đi, các ông đã có sẵn cục gạch của mình ở bên cửa mới (bạn đọc có sống ở Hà Nội thời bao cấp hẳn nhớ tâm trạng mỗi lần đi xếp hàng và không sao quên được những cục gạch mà có lần nào đó mình đã sử dụng).”
Tập Cận Bình tin rằng lịch sử đang dịch chuyển theo hướng có lợi cho mình. Trong chuyến thăm Vladimir Putin tại Matxcơva vào tháng 3 năm ngoái, nhà lãnh đạo Trung Quốc nói với Tổng thống Nga rằng “Ngay lúc này, chúng ta đang chứng kiến một sự thay đổi chưa từng thấy trong 100 năm qua, và chúng ta đang cùng nhau thúc đẩy sự thay đổi ấy.”
Sau 20 năm chiêu dụ Kiều bào về giúp nước không thành công, đảng CSVN lại tung ta Dự án “Phát huy nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngoài phục vụ phát triển đất nước trong tình hình mới” vào dịp Tết Nguyên Đán Giáp Thìn 2024. Đây là lần thứ tư, từ khi có Nghị quyết 36-NQ/TW ngày 26 tháng 3 năm 2004, một Quyết định nhằm mưu tìm đầu tư, hợp tác khoa học, kỹ thuật và tổ chức các Hội, Đoàn người Việt ở nước ngoài, đặt dưới quyền lãnh đạo của đảng CSVN được tung ra...
Khi số lượng di dân vượt biên bất hợp pháp qua biên giới Hoa Kỳ-Mexico tăng cao kỷ lục, câu hỏi quan trọng được đặt ra là: Làm thế nào mà Hoa Kỳ lại rơi vào tình trạng này, và Hoa Kỳ có thể học hỏi những gì từ cách các quốc gia khác ứng phó với các vấn đề an ninh biên giới và nhập cư. Chào đón công dân nước ngoài đến với đất nước của mình là một việc khá quan trọng để giúp cải thiện tăng trưởng kinh tế, tiến bộ khoa học, nguồn cung ứng lao động và đa dạng văn hóa. Nhưng những di dân vào và ở lại Hoa Kỳ mà không có thị thực hoặc giấy tờ hợp lệ có thể gây ra nhiều vấn đề – cho chính bản thân họ và cho cả chính quyền địa phương bởi tình trạng quá tải không thể kịp thời giải quyết các trường hợp xin tị nạn tại tòa án nhập cư, hoặc cung cấp nơi ở tạm thời và các nhu cầu cơ bản khác. Mà tình trạng này hiện đang xảy ra ở rất nhiều nơi ở Hoa Kỳ.
Trên vai những pho tượng trắng trong vườn Lục Xâm Bảo, lá vàng đã bắt đầu rơi lất phất. Mùa Thu Paris thật lãng mạn. Henry Kissinger đi dạo quanh một hồ nhỏ ở ngoại ô gần Rambouillet. Nơi đây từng cặp tình nhân đang nắm tay nhau bên những cành cây la đà bóng hồ. Ông thấy lòng mình nao nao (melancholic) vì sắp tới phiên họp quan trọng nhất với ông Lê Đức Thọ.
Tôi nghe nhiều người tỏ ý bi quan về hiện cảnh cũng như tương lai (đen tối) của Việt Nam. Dân tộc nào, số phận đó. Một đất nước có những người viết sử và làm luật (cỡ) như ông Dương Trung Quốc thì… đen là phải!
Việt Nam bước vào năm Giáp Thìn 2024 với gánh nặng tham nhũng và một đội ngũ “không nhỏ” cán bộ, đảng viên suy thoái đạo đức lối sống. Đó là cảnh báo của người đứng đầu đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng, trong cuộc phỏng vấn đầu năm của Thông Tấn Xã Việt Nam...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.