Hôm nay,  

Cuộc Đời Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ

20/11/201200:00:00(Xem: 37515)
KS Nguyễn Văn Phảy
Phó Tổng Thống nền Đệ Nhất Cọng Hoà 1956-1963 và là Thủ Tướng nền Đệ Nhị Cọng Hoà Nguyễn Ngọc Thơ có gốc gác Quảng Ngãi.

Ông Nguyễn Ngọc Thơ đã một thời từng là Quận trưởng, Tỉnh Trưởng rồi đến Bộ trưởng, Phó Tổng Thống và Thủ Tướng của nước Việt Nam Cọng Hoà là con cháu dòng họ Nguyễn đã từng theo phò chúa Nguyễn Phúc Ánh năm 1774.

Ông Nguyễn Ngọc Thơ và cuộc đời:

Ông Nguyễn Ngọc Thơ sinh ngày 26 tháng 5 năm 1908 ở Mỹ Phước, Long Xuyên, An Giang. Mất năm 1976 tại Sài Gòn. Cha ông là Nguyễn Ngọc Chơn. Gia đình rất giàu có. Ông Chơn có đầu óc canh tân và Tây học.

Thời niên thiếu ông Nguyễn Ngọc Thơ học trường Chasseloup-Laubat, rất giỏi về Pháp văn. Sau khi đậu tú tài phần triết học (Bachot metro-politain, Mentio Philo) ông không được đi du học vì lúc đó ông có bịnh đau tim. Nhưng sau nầy, người anh con ông bác ruột tốt nghiệp bác sĩ khám bịnh cho ông thì biết bịnh đau tim của ông không còn nữa.

Kể từ năm 1930, ông Nguyễn Ngọc Thơ đã bắt đầu làm việc ngạch hành chánh. Sau khi thi đậu vào Tri Huyện, ông làm việc ở Phủ Thượng Thơ, rồi Phủ Toàn quyền và làm Bộ trưởng Nội vụ của Quốc Gia Việt Nam.

Năm 1946 ông được bổ nhiệm làm quận trưởng Ô Môn, rồi Thốt Nốt. Năm 1948 làm quận trưởng Châu thành, Long Xuyên.

Những năm 1948, 1949, 1950, 1951 ông Nguyễn ngọc Thơ được bổ nhiệm làm Tỉnh Trưởng Long Xuyên, Cần Thơ.

Với chức vụ Tỉnh Trưởng ông có dịp trổ hết tài tổ chức của mình để sửa sang Châu Thành, Long Xuyên. Ông đã kiến thiết lại tất cả phố xá có nền nhà thấp, hàng năm bị ngập nước vào mùa lũ lụt phải đắp nền móng cao hơn hoặc sửa chửa hoặc xây cất trở lại.
nguyen_ngoc_tho
Cụ Nguyễn Ngọc Thơ.
Những con đường giao thông thấp phải được đắp cao. Những con đường hẹp phải được mở rộng cho việc lưu thông dễ dàng. Mở thêm công viên để cho dân chúng có nơi thăm viếng. Ông Nguyễn Ngọc Thơ đã cho lấp kinh Mỹ An Kiều và cho xây đắp một đại lộ lịch sự nhất Châu Thành lúc đó là đường Tự Do hiện nay.

Các công sở cũng được kiến thiết và xây cất trở lại, tốt đẹp và rộng rãi hơn xưa.

Về việc học hành trong tỉnh, Tỉnh trưởng Nguyễn Ngọc Thơ cũng cho mở thêm trường học năm 1948, 1949. Mặc dù không có sự tài trợ của chính phủ lúc bấy giờ, nhưng với quyết tâm ông Nguyễn Ngọc Thơ đã tạo nhiều điều kiện học tập cao hơn bậc tiểu học cho con em trong tỉnh nhà bằng cách cho xây dựng thêm trường trung học. Ban đầu chỉ có 2 lớp đệ nhất niên. Sau đó mỗi năm mở thêm được 2 lớp cho tới tú tài 1, rồi tú tài 2. Các trường tiểu học và sơ học cũng được mở thêm rất nhiều.

Khi nền Đệ nhất Cọng hoà được thành lập năm 1955, ông Nguyễn Ngọc Thơ được bổ nhiệm làm Đại sứ nước Việt Nam Cọng Hoà tại Nhật Bản.

Năm 1956 Tổng thống Ngô Đình Diệm triệu hồi ông Nguyễn Ngọc Thơ về Việt Nam và bổ nhiệm làm Quốc Vụ Khanh Kinh tế Quốc gia (tương đương cấp Bộ Trưởng). Vào tháng 11 năm 1956 ông được bổ nhiệm chức vụ Phó Tổng Thống và được Quốc Hội phê chuẩn vào tháng 12 cùng năm chiếu theo Hiến Pháp nền Đệ Nhất Cọng Hoà.

Kể từ tháng 11 năm 1963 đến tháng 2 năm 1964 ông Nguyễn Ngọc Thơ được Hội Đồng Quân Nhân Cách Mạng bổ nhiệm làm Thủ Tướng nước Việt Nam Cọng Hoà.

Ngày 30.1.1964 Trung tướng Nguyễn Khánh làm 1 cuộc chỉnh lý và truất phế các tướng lãnh chủ chốt trong cuộc Cách Mạng 1.11.1963.

Ngày 28.2.1964 Nguyễn Khánh truất phế chính phủ Nguyễn Ngọc Thơ và lên làm thủ tướng. Sau đó, vì lý do sức khoẻ ông Nguyễn Ngọc Thơ không tham dự vào chính trường.

Ông Nguyễn Ngọc Thơ và quê hương Quảng Ngãi:

Quảng Ngãi đã được khai phá từ đầu thế kỷ 15 (năm 1402) khi Hồ Quý Ly đem quân đánh Chiêm Thành. Lúc đó Quảng Ngãi được gọi là châu Thăng, châu Hoa, châu Tư, châu Nghĩa và nằm ở phía Nam của Quảng Nam trấn. Từ những năm 1414-1427, thời gian quân Minh qua xâm chiếm nước ta, quân Chiêm Thành đã quấy phá và chiếm lại 4 châu Thăng Hoa Tư Nghĩa. Đến đời vua Lê Thánh Tông (1471) thì mới bình định được vùng đất nầy và được đặt tên là Phủ Tư Nghĩa. Đến khi chúa Nguyễn Hoàng(1558)vào trấn thủ đất Thuận Hoá, kiêm thủ lãnh trấn Quảng Nam gồm cả phủ Tư Nghĩa. Đến năm 1604, phủ Tư Nghĩa đổi thành tỉnh Quảng Nghĩa.

Về di tích, ơ Quảng Ngãi có 1 trường luỹ dài 127 cây số từ phía bắc quận Trà Bồng chạy dọc theo Trường Sơn phía tây Quảng Ngãi cho đến An Lão phía bắc tỉnh Bình Định. Tường cao 4 m và rộng 2,5 m. Theo tài liệu lịch sử thì một phần bức tường đã được khởi sự xây dựng từ thời thống chế Bùi Tá Hân (1496-1568) khi ông là quan trấn thủ ở Quảng Nam. Đến năm 1819 triều Gia Long, Tả Quân Lê Văn Duyệt mới thực sự xây dựng trường luỹ, nhằm ngăn chận quân Man thuộc dân tộc thiểu số Hre xuống phá hoại đồng bằng người Kinh tại Quảng Ngãi.

Tại xã Sơn Châu, quận Sơn Tịnh nằm ở phía Nam núi Thiên Ấn khoảng 5 cây số, thì có thành Châu Sa của Chiêm Thành, hiện nay vẫn còn.

Ngoài ra Quảng Ngãi có thập nhị thắng cảnh. Nỗi tiếng nhất là Thiên Ấn Niêm Hà bên Long Đầu Hý Thuỷ. Long sơn, thân rồng uốn lượn ở phía tây bên núi Thiên Ấn, quận Sơn Tịnh. Đầu rồng tiếp giáp sông Trà, uốn lượn bên làng Ân Phú trước khi ra Cổ Luỹ Cô Thôn. Trên núi Thiên Ấn có chùa Thiên Ấn lâu đời. Có mộ của nhà chí sĩ yêu nước Huỳnh Thúc Kháng.

Nói về nhân vật có tên tuổi xứ Quảng Ngãi thì nhiều: Như thời quân chủ có Tả Quân Lê văn Duyệt, ông nội ở làng Bồ Đề, Mộ Đức Quảng Ngãi. Bình Tây Đại Nguyên Soái Trương Công Định người làng Mỹ Khê, Sơn Tịnh. Cử nhân Lê Trung Đình người làng Phú Nhơn, quận Sơn Tịnh là nhà chí sĩ yêu nước trong phong trào Cần Vương. Nguyễn Thân, người làng Thạch Trụ, Mộ Đức.

Phía Quốc Gia thì có Thống Tướng Lê văn Tỵ với gốc gác Quảng Ngãi. Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ có gốc ở làng An Vĩnh, Sơn Tịnh.

Phía Cọng sản có Thủ tướng Phạm Văn Đồng ở Mộ Đức, tướng Trần văn Trà ở xã Sơn Hội, Sơn Tịnh, tướng Trần Quý Hai ở xã Sơn Châu, Sơn Tịnh. Chủ tịch nước CHXHCNVN Trần văn Lương ở Đức Phổ.

Về văn chương có thi văn sĩ Nguyễn Vỹ ở xã Phổ Nghĩa, Đức Phổ, thi sĩ Bích Khê, tên thật Lê Quang Lương ở xã Phước Lộc, Sơn Tịnh và thi sĩ Tế Hanh (Trần Tế Hanh) ở Bình Sơn.

Nói về nguồn gốc của Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ cũng nên đề cập về gia đình ông Nguyễn Hoàng vào hậu bán thế kỷ 17 (1660-1700) ở đất Bắc vào Quảng Nghĩa những năm 1750, rồi phò chúa và dấu chúa Nguyễn Phúc Ánh tại làng An Vĩnh, Quảng Nghĩa năm 1774. Sau đó dòng họ Nguyễn ở làng An Vĩnh phò chúa Nguyễn Phúc Ánh đi vào Nam và khai sinh dòng họ Nguyễn ở miền Nam, chi phái Nguyễn Ngọc Thơ.

Vào đầu bán thế kỷ 18, khoảng những năm 1730-1745, ở vùng Thanh Hoá, hai người con trai của gia đình ông Nguyễn Hoàng, là Nguyễn Bàn và Nguyễn Kiêm nằm mộng đều cùng thấy câu “Hoàng Thân Nhất Đới, Vạn Đại Dung Thân” hiện lên bức tường. Sáng hôm sau hai anh em Bàn và Kiêm tâu với cha Nguyễn Hoàng, và cha Nguyễn Hoàng bàn rằng:

“Hai câu đó là đúng sự thật. Một chum nước đầy có nhiều gáo dùng, thế nào nó cũng khua giọng, đổ. Khuyên các con cháu trong họ Nguyễn hay các họ Lê, Trần v.v., nếu làm Quan phải bị nạn, vợ con đói khổ. Vì hiếu với dân phải bị quan nịnh Triều cũng bị rơi đầu. Còn trung với nước, với vua thì nhân dân đói khổ lầm than. Vậy hai anh em phải vào Nam, tìm nơi khai khẩn lập nghiệp, làm ăn giàu có, con cháu sung mãn đời đời.”

Sau đó 2 anh em Nguyễn Bàn và Nguyễn Kiêm mới di cư vào tỉnh Quảng Nghĩa khoảng những năm 1750 để lập nghiệp. Người em là Nguyễn Kiêm đến làng Đồng Xuân, nay là xã Tịnh Hoà. Sau nầy người con của ông Nguyễn Kiêm là Nguyễn Tấn Đức di chuyển vào làng Thạch Trụ, huyện Mộ Đức, Quảng Nghĩa định cư.

Người anh là Nguyễn Bàn đến làng An Vĩnh, nay là xã Tịnh Kỳ, thời VNCH là xã Sơn Hải, một làng ven biển gần biển Mỹ Khê, cách đảo Lý Sơn khoảng 20 cây số, thuộc huyện Sơn Tịnh (trước năm 1890 thuộc huyện Bình Sơn) để lập nghiệp.Ông Nguyễn Bàn sinh được 3 người con trai: Con trưởng là Nguyễn Lại, con thứ 2 là Nguyễn Tri Phương sau đổi tên thành Nguyễn Quang Huy, người con thứ 3 là Nguyễn Quang Ba.

Năm 1774, khi quân chúa Trịnh từ ngoài Bắc vào chiếm Phú Xuân, thì chúa Nguyễn chạy vào Quảng Nam. Ở Quảng Nam cũng bị quân Tây Sơn vây đánh. Thế đường cùng, chúa Nguyễn để Đông Cung ở lại Quảng Nam chống đánh với quân Tây Sơn, còn Chúa Nguyễn Phúc Ánh (còn gọi là Nguyễn Ánh, sinh ngày 08 tháng 2 năm 1762 tức là ngày 15 tháng giêng năm Nhâm Ngọ) chạy thoát được. Lúc đó chúa Nguyễn Phúc Ánh được 13 tuổi. Ông Nguyễn Tri Phương và Nguyễn Quang Ba của dòng họ Nguyễn theo phò chúa Nguyễn Phúc Ánh đã đưa chúa Nguyễn Phúc Ánh vào làng An Vĩnh, huyện Bình Sơn (nay là quận Sơn Tịnh), trấn Quảng Nghĩa để tuyển mộ binh lính, dấy binh chống lại quân Tây Sơn. Lúc đó quân Tây Sơn đóng quân ở dưới chân núi Thiên Ấn, bên dòng sông Trà Khúc hay tin nên đem quân xuống làng An Vĩnh cách núi Thiên Ấn khoảng vài chục cây số để truy nã chúa Nguyễn Phúc Ánh. Bị bại lộ, ông Nguyễn Tri Phương và dòng họ Nguyễn Bàn đem dấu chúa Nguyễn Phúc Ánh trong một hang Rái cá còn gọi là gành Rái hay là lò rượu vì hang đá được trông giống như lò nấu rượu vậy. Chính giữa có cái hang và xung quanh là các phiến đá. Khi sóng biển lớn rái cá chun vào đó ẩn núp. Hang Rái cá hiện nay vẫn còn tại làng An Vĩnh. Khi quân Tây Sơn bố ráp tới đó thì chỉ thấy nhiều con rái cá từ trong hang rái chạy ra và thấy toàn là dấu chân rái cá mà thôi. Quân Tây Sơn không tìm thấy dấu vết Chúa Nguyễn Phúc Ánh ở đâu cả nên quân Tây Sơn mới bỏ đi.

Sau đó ông Nguyễn Tri Phương đã đưa chúa Nguyễn phúc Ánh ra đảo Lý Sơn rồi tiếp tục phò chúa Nguyễn Phúc Ánh vào Nam bằng chiến thuyền. Hiện nay tại đảo Lý Sơn còn cái giếng nước ngọt được đào từ thời chúa Nguyễn Phúc Ánh năm 1774. Theo như sự truyền miệng trong dòng họ Nguyễn thì ông Nguyễn Tri Phương còn phò chúa Nguyễn Phúc Ánh qua Xiêm La là Thái Lan hiện nay.

Sau khi chúa Nguyễn Phúc Ánh vào miền Nam và tiếp tục tuyển mộ binh lính chống với quân Tây Sơn thì việc phò chúa và cất dấu chúa Nguyễn Phúc Ánh tại làng An Vĩnh ở Quảng Nghĩa bị bại lộ và dòng họ Nguyễn tại làng An Vĩnh bị quân và triều đình Tây Sơn truy nã và kết án trọng tội. Vì vậy dòng họ Nguyễn tại làng An Vĩnh phải phân tán và trốn đi khắp nơi.

Sau nầy chúa Nguyễn Phúc Ánh thắng quân Tây Sơn thì ông Nguyễn Tri Phương ở lại trong miền Nam, đổi tên là Nguyễn Hửu Cúc, lập gia đình, tại quận Thốt Nốt vùng Long Xuyên, Châu Đốc và khai sinh ra dòng họ Nguyễn Ngọc Thơ. Ông Nguyễn Ngọc Thơ là cháu đời thứ 5 và gọi ông Nguyễn Hữu Cúc là ông cao.

Năm 1801 chúa Nguyễn Phúc Ánh lên ngôi Hoàng Đế lấy niên hiệu là Gia Long. Vua Gia Long nhớ ơn dòng họ Nguyễn đã cứu chúa năm 1774 thì có Sắc Phong ban cho dòng họ Nguyễn tại làng An Vĩnh quan tước Công Hầu. Nhưng lúc bấy giờ dòng họ Nguyễn không còn ai ở tại làng An Vĩnh, chỉ có bà cô độc thân, không có con, nên bà ấy bán Sắc phong Công Hầu cho họ Trương ở làng Mỹ Khê gần đó.

Sau đó mấy năm thì các anh em họ Nguyễn mới trở về làng An Vĩnh. Năm 1840 có ông Nguyễn Đễ còn gọi là Nguyễn Dõng, trưởng phái, cháu gọi ông Nguyễn Tri Phương (Nguyễn Hửu Cúc) là ông nội chú từ làng An Vĩnh lên buôn bán tại làng Ân Phú, cách thị trấn Quảng Ngãi khoảng 1,5 cây số, cách núi Thiên Ấn khoảng 1 cây số, được ông quan triều Minh Mạng bậc Tam phẩm, cấp Vệ Uý, nguyên là Tổng Lãnh Binh ở Vĩnh Long tên là Nguyễn văn Phượng (con của Đô uý Nguyễn Văn Hiệp) nhận làm con nuôi. Thời vua Thiệu Trị quan Nguyễn Văn Phượng được thăng lên bậc Nhị Phẩm (Thống chế). Ông Nguyễn Để khai sinh ra dòng họ Nguyễn tại làng Ân Phú. Người viết bài nầy là cháu đời thứ 5 của ông Nguyễn Đễ.

Ngoài ra, vào thời triều Minh Mạng và Thiệu Trị, gia đình họ Nguyễn tại làng An Vĩnh, ông Nguyễn Khê đã tham dự Đội Thuyền đi Hoàng Sa.

Nghiên cứu tiếp tục về nguồn gốc của ông Cao tổ dòng họ Nguyễn Hoàng ở đất Bắc thì ông Nguyễn Hoàng là ông nội của ông Nguyễn Hửu Cúc thuộc dòng họ Nguyễn ở đất Bắc trực thuộc dòng họ Nguyễn Phi Khanh đời thứ 9.3. Như vậy ông Nguyễn Ngọc Thơ là đời thứ 16 so với Thuỷ tổ Nguyễn phi Khanh (1355-1428).

http://www.vietnamgiapha.com/XemPhaHe/2067/pha_he.html

Tóm lại, nguồn gốc họ Nguyễn của ông Nguyễn Ngọc Thơ xuất phát từ dòng họ Nguyễn Hoàng (sinh vào thời kỳ hậu bán thế kỷ 17 (1660-1700) ở đất Bắc và ông Nguyễn Hoàng là con cháu đời thứ 9.3 của dòng họ Nguyễn, Thủy Tổ Nguyễn Phi Khanh.

Những năm 1960, 1962 Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ đã về thăm quê hương Quảng Ngãi.

KS Nguyễn Văn Phảy
Tài liệu nghiên cứu: - Những Gia Phả Dòng Họ Nguyễn
- Non Nước Xứ Quảng

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trong những ngày lưu  lạc tha hương, hai tiếng “Quê hương” như một nhắc nhở đêm ngày, những hình ảnh thân thương
Câu hỏi thời thượng trong mùa bầu cử tổng thống hiện nay là: Hillary Clinton (Dân chủ, New York) hay Barack Obama (Dân chủ, Illinois)"
Chúng tôi nhận được bài viết này do một nhân vật ở Hà Nội gửi. Chính ông cho biết mỉnh là một giáo sư tiến sĩ đang giảng dậy tại một Đại học ở Hà Nội
Những dịp chuyển sang một năm mới, một thế kỷ mới, một ngàn năm mới, con mắt mỗi người tự nhiên mở rộng tầm nhìn
Hoa mai là loại hoa nở đầu tiên trong mùa Xuân. Nói đến mùa Xuân người ta liên nghỉ đến hoa mai
Khoảng 80 Tăng Ni Cư Sĩ đã họp Đaị Hội Bất Thường tại Quận Cam các ngaỳ cuối tuần qua
Mạng ''Chứng nhân lịch sử'' vừa treo giải ''Lưỡi Vàng'' cho những câu nói hay nhất trong năm con Lợn - Đinh Hợi. Phải là những câu nói xuất sắc
Năm 1991, kinh tế Hoa Kỳ bị suy trầm, rất nhẹ. Nhưng dư luận nước Mỹ lúc đó đều nghe thấy những hồi chuông báo tử
Bản đồ Việt Nam đây, cụ Hồ vừa ý chưa" (Ảnh Bà Phạm Thúy Hằng, Phó Giám đốc Trung tâm Hoạt động Văn hóa
Cựu Phó Đề Đốc Hồ Văn Kỳ Thoại (PDDDD HVK Thoại) là Tư Lệnh Hải Quân vùng I Duyên Hải
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.