Hôm nay,  

Hillary Clinton: Một Người Phụ Nữ Phi Thường

08/08/201200:00:00(Xem: 14390)
Nói về những người phụ nữ. Thông tin đầu tháng 7/2012 cho biết bà bác sĩ Lakshmi Sehgal người Ấn độ vừa qua đời hôm 3/7 hưởng thọ 97 tuổi. Khi bà còn sống thế giới ít nói đến bà. Nhưng bà quả là một trong những người phụ nữ phi thường của thế kỷ 20. Bà là một bác sĩ từng tham gia cuộc đấu tranh chống Anh quốc giành độc lập cho Ấn độ giữa thập niên 1940. Bà tham gia đoàn quân của lãnh tụ kháng chiến Subhas Chandra Bose và được ủy thác thành lập và chỉ huy trung đoàn nữ du kích đầu tiên với quân hàm Đại Tá. Khi người Anh trả độc lập cho Ấn, bà tham gia nội các tạm thời của lãnh tụ Chandra Bose với một chương trình giải phóng người phụ nữ Ấn, và san bằng giai cấp trong tôn giáo.

Trong sinh hoạt chính trị bà từng là Thượng nghị sĩ và năm 2002 tuy đã 87 tuổi bà Lakshmi Sehgal còn đại diện thành phần tả phái Ấn độ ra tranh cử tổng thống. Thất bại, bà trở về thành phố Kanpur miền bắc Ấn độ, mở một phòng khám bệnh miễn phí. Mỗi ngày bà đến phòng khám bệnh, tự tay quét dọn văn phòng trước khi mở cửa. Bà qua đời sau một cơn đau tim tại phòng khám bệnh của bà. Đó là tấm gương của một phụ nữ đã sống với tình thương trong thế kỷ 20 bên cạnh những người phụ nữ lừng danh khác.

Nói về những phụ nữ lừng danh khác trong thế kỷ trước và đầu thế kỷ này phải có một cuốn sách dày mới điểm qua hết như bà Margaret Thatcher, thủ tướng Anh 1979-1990; bà Gro Harlem Brundtland, thủ tướng Na Uy nhiều lần trong thời gian từ 1981 đến 1996; bà Corazon Aquino, tổng thống Phi Luật Tân 1982-1996; bà Benazir Bhutto, thủ tướng Pakistan 1988-1990, 1993-1996 và nhiều tên tuổi khác…. Trong đó có bà Hillary Rotham Clinton phu nhân tổng thống Bill Clinton đương kim bộ trưởng Ngoại giao Hoa Kỳ.

Bà Hillary Clinton là một người phụ nữ có chí lớn. Bà muốn trở thành tổng thống Hoa Kỳ để đưa Hoa Kỳ vượt qua giai đoạn chuyển tiếp siêu cường đầu thế kỷ. Mộng không (hay chưa?) đạt được, nhưng trong chức vụ Bộ trưởng Ngoại giao bà đã để lại một dấu ấn trên chính sách ngoại giao hướng về Á châu của Hoa Kỳ.

Từ đầu thập niên 1970, khi còn là một sinh viên trường luật tại đại học Yale bà đã có sắc thái đặc biệt. Giữa bao sinh viên ưu tú bà đã chọn Bill Clinton, một sinh viên bụi đời của một gia đình có nhiều vấn đề vì bà thấy qua Bill một tiềm năng chính trị, và bà đã không đánh giá nhầm. Thời gian Bill Clinton làm tổng thống vướng vào vụ Monica Lewinsky, bà đã đau khổ chịu đựng, quyết không li dị như thường tình theo văn hóa Tây phương để theo đuổi con đường vào Bạch Cung sau chồng. Nhưng ý người không vượt qua ý trời, bà đã không thắng được ông Obama trong cuộc tranh cử năm 2008, và bà đã can đảm nhận làm bộ trưởng ngoại giao cho tổng thống Obama để tạo uy tín cá nhân trên tầm vóc quốc tế để thực hiện những gì bà từng ấp ủ .

Bà Clinton biết rằng chính sách đối ngọai của một quốc gia là một vấn đề thuộc phạm trù sức mạnh của quốc gia đó. Theo Hiến pháp Hoa Kỳ, tổng thống Obama là người vạch chính sách đối ngoại, và bà, bộ trưởng ngoại giao là người thi hành chính sách của ông Obama. Nhưng bà cũng biết rằng quan hệ giữa bà và tổng thống Obama có tính đặc biệt và bà có nhiều tự do hơn các bộ trưởng ngoại giao khác trong sự chọn lựa chính sách.

Nếu tổng thống Obma thích ứng với khung cảnh mới của thế giới trong đó sức mạnh của Hoa Kỳ đã đạt đến cao điểm thì bà Clinton nghĩ rằng Hoa Kỳ còn có khả năng của một đại cường. Theo bà Clinton, sự nhìn nhận thế yếu không lợi gì cho thế đứng Hoa Kỳ mặc dù bà Clinton không có ảo tưởng về sức mạnh của Hoa Kỳ và thực tế trước mắt là thế kỷ 21 không còn là thế kỷ của Hoa Kỳ.

Bà Clinton đã chứng tỏ có tầm nhìn sâu sắc. Trong cuộc tranh luận năm 2007 giữa hai ứng cử viên Barack Obama và Hillary Clinton, khi trả lời một câu hỏi của cử tọa rằng nếu đắc cử tổng thống, trong năm đầu tiên ông có sẵn sàng gặp các lãnh tụ của Iran, Syria, Venezuela, Cuba, và Bắc Hàn mà không cần điều kiện tiên quyết không, ông Obama trả lời: “sẵn sàng”, trong khi bà Clinton cho rằng một cuộc gặp gỡ như vậy chỉ giúp cho kẻ địch dùng làm lợi khí tuyên truyền. Sau này, trong các lãnh tụ nói trên tổng thống Obama chỉ gặp bắt tay xã giao một lần với ông Hugo Chavez tổng thống Venezuela khi gặp nhau tại Hội nghị Thượng đỉnh các nước Châu Mỹ tháng 4/2009 tại Cộng hòa Trinidad and Tobago.

Và qua 4 năm làm tổng thống ông Obama đã chứng tỏ không bồ câu” như khi tranh cử. Ông đã gián tiếp chứng tỏ quan điểm đối ngoại của bà Clinton là đúng. Ông Obama giữ lời hứa rút quân ra khỏi Iraq, nhưng tăng quân tại Afghanistan, tăng gia các cuộc đột kích giết các lãnh tụ al Qaeda bằng máy bay không người lái, quyết định đánh và giết Osama bin Laden tại Abbottabad bất chấp vi phạm chủ quyền của Pakistan.

Nhận lời làm bộ trưởng ngoại giao cho tổng thống Obama là một quyết định khó khăn và can đảm. Nhưng bà biết ở chức vụ bộ trưởng ngọai giao bà sẽ có một diễn đàn tốt nếu không gíup bà trở lại Bạch ốc khi thời cơ đến cũng là nơi để thực hiện chính sách đối ngoại của mình. Bà xem sự thất bại trong cuộc chạy đua vào tòa Bạch ốc chỉ là thua một trận đánh, chưa thua một trận giặc.

Quyết định của bà còn là một quyết định thức thời. Trong khi tổng thống Obama lo củng cố lại uy tín của Hoa Kỳ bằng thái độ khiêm nhượng thụt lùi tư thế quốc tế của Hoa Kỳ để mua chuộc lại lòng tin thế giới thì bà Clinton có tư thế để xác định Hoa Kỳ vẫn mạnh và vẫn lãnh đạo thế giới trong một thời gian dài trước mắt.

Đó là cái nhìn nhất quán của bà Clinton. Trong mọi chính sách bà quan tâm nhất đến tư thế của Hoa Kỳ trên thế giới trong thời đại bản lề thay bật đổi ngôi siêu cường trên thế giới. Và theo dõi cách hành xử của bà từ cuộc bỏ phiếu thuận năm 2003 cho phép tổng thống Bush tấn công Iraq lật đổ Saddam Hussein cho đến lập trường của bà trong cuộc tranh cử tổng thống năm 2008 và các chính sách của bà trong gần 4 năm làm bộ trưởng ngoại giao chúng ta không thể không thấy cái nhìn chiến lược của bà:

Khi ra tranh cử bà Clinton đã không đưa ra những chủ trương lớn có tính triết lý như chủ trương Bảo thủ Với Tình Thương - Compassionate Conservative - của George W. Bush hay lập trường Người Dân Chủ Mới - New Democrat -, của ông Clinton. Lập trường của bà là củng cố thế mạnh của Hoa Kỳ lâu chừng nào hay chừng đó trong thế tương quan mới.

Chính sách của tổng thống Bush tại Trung đông là một thất bại, nhưng bà đã không đánh giá cuộc chiến Trung đông đánh Iraq là một điều vô ích. Máu và tiền của nhân dân Hoa Kỳ đã đầu tư vào Trung đông thì phải được dùng như một vốn liếng cho nền an ninh của thế giới và của Hoa Kỳ. Tầm nhìn của bà là bảo vệ chiến tuyến Trung đông đừng để cho nó sụp đổ trong khi chuẩn bị cho mặt trận mới tại Á châu Thái Bình Dương.


Bà Hillary Clinton không tỏ ra hối tiếc năm 2002 (khi còn là Thượng nghị sĩ) đã bỏ phiếu thuận cho phép Hoa Kỳ tấn công Iraq, và bà vẫn giữ lập trường đó, không đòi hỏi rút quân như nhiều thành viên thuộc đảng Dân chủ. Trong một cuộc phỏng vấn bởi phóng viên Dan Balz của tờ tuần báo Washington Post ngày 26/5/2006 bà nói “Tôi từng nói rằng tôi rất tiếc tổng thống đã xử dụng quyền hành của mình như vậy. Nhưng tôi phải nhìn vào toàn bộ vấn đề một cách có trách nhiệm. Tôi tin rằng chúng ta đang lâm vào một hoàn cảnh khó khăn để chúng ta có quyền hốt hoảng và vì vậy tôi không muốn a dua theo những người muốn ấn định một thời biểu rút quân cũng như những người ủng hộ tổng thống Bush và thủ tướng Tony Blair 100 phần trăm. ” (nguyên văn: I have said many times I regret how the president has used his authority. But I think I have a responsibility to look at this as carefully as I can and say what I believe, and what I believe is were in a very dangerous situation and it doesnt lend itself to sound bites, and therefore I have resisted going along with either my colleagues who feel passionately they need to call for a date certain or colleagues who are 100 percent behind the policy and with the president and Prime Minister Blair … (“Does She Have a Platform To Stand On?”, The Washington Post National Weekly Edition June 5 -11, 2006)

Và cũng trong cuộc phỏng vấn đó bà Clinon nói: “Triết lý lãnh đạo quốc gia của tôi không thu gọn trong một vài danh từ đơn giản. Mỗi vấn đề sẽ được giải quyết tùy theo bối cảnh của nó và dựa vào những lý tưởng đẹp tôi hằng ôm ấp để tìm ra một giải pháp thực tế. Nó có thể không được giải quyết theo tiền lệ vì thật ra các vấn nạn của quốc gia chúng ta không có cái nào giống cái nào” (nguyên văn: I dont think like that. I approach each issue and problem from a perspective of combining my beliefs and ideals with a search for practical solutions. It doesnt perhaps fit a preexisting box, but many of the problems we face as a nation dont either. (“Does She Have a Platform To Stand On?”, The Washington Post Natinonal Weekly Edition June 5 -11, 2006)

Tuy có kẻ thương người ghét nhưng không ai có thể chối cãi bà Hillary là một nhân vật lịch sử có cá tính đặc biệt. Trong cuốn hồi ký “Living History” của bà (nhà xuất bản Simon & Schuter – New York) phát hành giữa năm 2003, ba năm sau khi bà đắc cử Thượng nghị sĩ bang New York, một cuốn sách trình bày con người và lập trường xuyên qua tiểu sử của bà, bà đã dùng một văn phong nhẹ nhàng nhưng chứa đựng một sức sống mãnh liệt. Qua đó người ta thấy một phụ nữ cương quyết nhưng không kém dịu dàng của một người đàn bà khi giải quyết sự việc, bà tranh đấu cho nữ quyền và nhân quyền nhưng không quá khích, biết thông cảm và tha thứ cho chồng, và quan trọng hơn cả bà chứng tỏ nắm vững công việc quốc gia và các vấn đề lớn của thế giới. Bà tin vào thuyết con người sinh ra vốn vô nhiễm mọi thứ trên đời và “tính bổn thiện”. Bà viết trong phần mở đầu của cuốn sách như lời trần tình với cử tri toàn quốc: “Tôi sinh ra không phải đã là một đệ nhất phu nhân, không phải là một người Dân chủ, không phải là một Thượng nghị sị, cũng không phải là một luật sư, không phải là một người tranh đấu cho nữ quyền và nhân quyền, tôi sinh ra chưa phải là một bà mẹ, một người vợ. Tôi sinh ra như một người Mỹ giữa thế kỷ 20, tại một địa điểm và vào một thời điểm đặc biệt. Tôi được tự do lựa chọn không bị giới hạn như những người phụ nữ Hoa Kỳ của những thế hệ trước tôi, và đa số những người phụ nữ thuộc thế hệ này ở những nước khác. Tôi sinh ra trong trào lưu thay đổi trên thế giới, và tôi được tham dự vào cuộc đấu tranh bảo vệ thế đứng của Hoa Kỳ trên thế giới (nguyên văn: I wast born a first lady or a senator, I wasnt born a Democrat, I wasnt born a laywer or an advocate for womens rights and human rights. I wasnt born a wife or mother. I was born an American in the middle of the twentieth century, a fortunate time and place. I was free to make choices unavailable to past generations of women in my own country and inconceivable to many women in the world today. I came of age on the crest of tumultuous social change and took part in the political batổng thốngles fought over the meaning of America and its role in the world (Living History, trang 1).

Dự phần vào những cuộc đấu tranh chính trị xác lập thế nào là nước Mỹ và nhiệm vụ của Hoa kỳ trên thế giới là đường lối chính trị của bà. Bước vào chính quyền Obama với chức vụ Bộ trưởng ngoại giao bà Clinton triển khai chính sách đối ngoại siêu cường của Hoa Kỳ. Bà cùng với ông bộ trưởng quốc phòng Robert Gates (nguyên là giám đốc Trung ương Tình báo – CIA) bén nhạy nhận ra mối đe dọa của Trung quốc và đã nhanh chóng công bố chính sách của Hoa Kỳ tại Thái Bình Dương tại Hà Nội tháng 7 năm 2010 khi dự Hội nghị ARF (Asean Regional Forum).

Bà Clinton (và ông Gates) là người đã thuyết phục tổng thống Obama để tâm đến vai trò của Hoa Kỳ tại Á châu và công bố chính sách “pivot” trong chuyến đi Úc châu cuối năm 2011. Nếu hôm nay Việt Nam có một tư thế rộng rãi để chọn đường lối đối ngoại (Trung quốc hay Hoa Kỳ) là nhờ sự mở đường của bà Clinton.

Dấu ấn chính sách trở lại Thái Bình Dương của bà Clinton cũng thấy được qua các chuyến đi Miến Điện của bà cuối năm 2011. Cảm nhận được sự trăn trở của các tướng lãnh Miến Điện trước áp lực của Trung quốc, bà Clinton đã thuyết phục Miến Điện chấp nhận tư thế chính trị của bà Aung San Suu Kyi và qua đó giải tỏa lệnh cấm vận của Hoa Kỳ và Tây phương đối với Miến Điện để giúp Miến Điện cân bằng và giải tỏa sức ép của Trung quốc. Chuyến đi Miến Điện 3 ngày của bà Clinon đầu tháng 12/2011 là một phần trong một chính sách lớn của Hoa Kỳ tại Á châu.

Khung cảnh chính trị tại Hoa Kỳ đang chuyển biến. Qua năm 2013 dù ông Mitt Romney hay Barack Obama đắc cử tổng thống Hoa Kỳ, bà Hillary Clinton cũng không còn giữ chức vụ bộ trưởng ngoại giao. Nhưng vị tổng thống nào cũng còn cần đến bà trong cuộc đối đầu với Trung quốc trong thập niên thứ hai của thế kỷ 21 này.

Trần Bình Nam
August 7, 2012
binhnam@sbcglobal.net
www.tranbinhnam.com
Tài liệu tham khảo:
1.“Does She Have a Platform to Stand On?” (The Washington Post, National Weekly Edition June 5th-11th , 2006)
2.“Living History”, by Hillary Rodham Clinton, Simon & Schuster, New York
3.“Democrats get boos, cheers at 2008 audition”, Reuters June 14, 2006, The San Diego Union-Tribune June 15, 2006
4.“Doubting Hillary” by Lexington, The Economist June 17th-23rd, 2006

Ý kiến bạn đọc
08/08/201215:04:26
Khách
Nếu đoán không nhầm , nữ ngoại trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton sẽ trở thành phó tổng thống cho ông Obama nếu ông nầy đắc cử nhiệm kỳ hai trong tháng 11 tới . Điều đó sẽ dọn đường cho bà tái ứng cử tổng thống sau khi ông Obama chấm dứt nhiệm kỳ cuối của ông trong cương vị Tổng Thống Hoa Kỳ . Thời gian chuẩn bị khi làm phó cho ông Obama cũng là thời gian dưỡng sức sau khi nhiệm vụ ngoại trưởng đầy lao tâm lao lực đã hoàn tất , từ đó bắt đầu cho một cuộc đua mới là sự trở lại của bà để làm chủ nhân của toà Bạch Cung vậy !
08/08/201214:37:26
Khách
No English và tiếng Việt ngày nay. Gần 30 năm bước vào hội trường ở thành phố Houston-TX cùng hơn 500 người đủ sắc tộc. Chẳng biết vị́ đứng trên podium đọc những gì nhưng đàn con nhắc nhở hễ khi nào người đọc nói lớn hai chữ " I DO " thì phài nói I Do và giơ tay. Cho tới giờ này cũng chưa thấm nhuần chỡ I do như mong muốn, hỏi ra mới biết I do trước tòa và cũng như ngày trong hội trường này tối quan trọng, còn ngoài ra những bàn luận I do rồi sau đó I don't do ngay lập tức cũng nhiều. Bỏ qua chuyện I do sang chữ nghĩa Mẹ đẻ " PHI THƯỜNG ", cũng còn ú ớ nhất là gần 4 thập niên rồi, hao mòn thêm thắt chỉ là học lỏm. Tach ra từng chữ PHI hình như hiếm có hay nói đúng hơn là không có, THƯỜNG hình như nghĩa của nó là dân sàn sàn nhau chớ nếu hiểu theo tất cả thì lại là qúa đáng. Như vậy PHI THƯỜNG là không có trong số sàn sàn hay không có trong tất cả nghĩa là loài người trên mặt đất. Hừm. vẫn vui vì có để đọc chờ ngày về viễn cảnh
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
“Ý thức xã hội mới Việt Nam “là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, những tình cảm, tâm trạng, truyền thống tốt đẹp, v.v. của cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ xã hội mới”. Nói như thế là cuồng tín, vọng ngoại và phản bội ước vọng đi lên của dân tộc...
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
Hí viện Crocus City Hall, cách Kremlin 20 km, hôm 22 tháng O3/2024, đang có buổi trình diển nhạc rock, bị tấn công bằng súng và bom làm chết 143 người tham dự và nhiều người bị thương cho thấy hệ thống an ninh của Poutine bất lực. Trước khi khủng bố xảy ra, tình báo Mỹ đã thông báo nhưng Poutine không tin, trái lại, còn cho là Mỹ kiếm chuyện khiêu khích...
Khi Việt Nam nỗ lực thích ứng với môi trường quốc tế ngày càng cạnh tranh hơn, giới lãnh đạo đất nước đã tự hào về “chính sách ngoại cây giao tre” đa chiều của mình. Được Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), thúc đẩy từ giữa thập niên 2010, ý tưởng là bằng cách cân bằng mối quan hệ của Việt Nam với các cường quốc – không đứng về bên nào, tự chủ và thể hiện sự linh hoạt – nó có thể duy trì sự trung gian và lợi ích của mình, đồng thời tận dụng các cơ hội kinh tế do tình trạng cạnh tranh của các đại cường tạo ra
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.