Hôm nay,  

Nhớ Vũ Cao Hiến

29/05/201200:00:00(Xem: 8847)
Quá khứ luôn luôn là một gánh nặng không dễ dàng rũ bỏ, dù người ta có cố gắng đến đâu. Nhất là thứ quá khứ dính liền với những chặng đường khổ nhục của một đời người, dính liền với những người một thời mình chia sẻ nhiều thứ. Quên không được thì đành phải nhớ. Mỗi khi có dịp, nỗi nhớ như vết thương chưa lành, lại tấy mủ, sưng mọng, làm đau nhức. Và mất ngủ.

Trong bóng tối của đêm, ngòai hồn ma bóng quế dật dờ, còn có những khuôn mặt người tình, bằng hữu, nhất là những người đã vội bỏ cuộc chơi lạc bước vào miền miên viễn chiêm bao. Một trong những khuôn mặt mà tôi nhớ nhất trong những đêm mất ngủ nghĩ về ngày tháng tù đày là Vũ Cao Hiến.

Thực ra, tôi biết Hiến (chứ không quen) từ trước khi đi tù. Năm 1972, lúc tôi còn thụ huấn tại trường ĐH/CTCT/Đà Lạt, Hiến là SVSQ khóa 23 Võ Bị. Anh qua trường tôi hát giúp vui trong một buổi nhạc hội . Đó là một giọng hát khiến tôi khó quên. Bài hát Hiến hát đêm đó cũng khó quên: Kỷ Vật Cho Em của Phạm Duy. Đời sinh viên sĩ quan với những kỷ luật khe khắt của quân trường, dù rất muốn nhưng tôi không có dịp để làm quen người sinh viên võ bị có giọng hát tuyệt vời ấy.

9 năm sau, tôi gặp lại Hiến trong nhà tù trại cải tạo Vĩnh Quang, thuộc tỉnh Vĩnh Phú, miền trung du Bắc Việt. Trại có hai khu : Vĩnh Quang A và Vình Quang B. Trại A gồm phần lớn an ninh tình báo, chiến tranh chính trị. Trại B gồm phần lớn các sĩ quan tác chiến ở các binh chủng dữ dằn : Nhảy Dù, Thủy Quân Lục Chiến, Biệt Động Quân. Tôi ( CTCT) ở A . Hiến ( BĐQ) ở B. Dịp Tết 1981, Ban văn nghệ trại VQ A thiếu người do một số đã được thả, nên bổ sung thêm một số có khả năng đàn hát ở trại VQ B. Khi ấy, Hiến đang bị biệt giam vì “ tội “ hát và phổ biến “ nhạc phản động “. Chúng tôi đề nghị ưu tiên Vũ Cao Hiến và một số anh em khác từ trại B ra trại A để bổ sung vào ban văn nghệ. Ra tới trại A, chàng sĩ quan BĐQ trắng trẻo thư sinh xanh như tàu lá vì nằm biệt giam lâu ngày và kiệt sức vì thiếu ăn. Nhưng điều đó cũng không ngăn cản được chàng nhanh chóng chinh phục anh em tù trại VQ A, như anh bạn tù Trần Lê Việt , một tác gỉa tù khúc đã viết “Trong nhóm tăng cường này, nổi bật là Vũ Cao Hiến. Cũng như Đào Đức Hùng tôi nhắc đến ở trên, Hiến là một giọng ca hay nhất tôi gặp trong tù, không điêu luyện như Hùng nhưng lại nhẹ nhàng đơn sơ dễ đến với người nghe. Anh cũng là tác giả của nhiều bài tù khúc được anh em ưa thích, lại được chuyển đến bằng giọng ca truyền cảm của chính tác gỉa, nên tác động của những bài nhạc ấy của Hiến rất lớn. Cuộc đời của Hiến kết thúc một cách buồn thảm. Sau khi ra tù một thời gian ngắn, anh vượt biên và bỏ xác trên đường, để lại bao thương cảm cho bạn bè.. . “ ( Trần Lê Việt : Những hình bóng cũ ).( http://t-van.net/?p=4240)
vu_cao_hien_tuong_niem_tu_khuc__1__medium
Vũ Cao Hiến hát Tù Khúc.
Năm đó, chúng tôi đã thực hiện được một chương trình văn nghệ để đời trước khi chính thức rã đám kẻ lên tàu vào Nam , kẻ lên xe qua Nam Hà. Với chủ đề “ Mùa Xuân và Quê Hương “, chúng tôi lập lờ những bài hát cũ của miền Nam 1975 với những bài hát sau này phổ biến ở Sài Gòn của một số nhạc sĩ trẻ miền Nam qua những lời dẫn giải cũng lập lờ không kém. Cán bộ trại khen hay, nhưng “ cao quá, khó hiểu “, anh em tù thì hoàn tòan thỏa mãn. Vũ Cao Hiến góp phần mình thật xuất sắc với bài Tình Quê Hương của Đan Thọ phổ thơ Phan Lạc Tuyên. Anh hát hay đến độ cán bộ trại dù thắc mắc về nguồn gốc bài hát nhưng ngần ngừ không dám hỏi sợ Hiến không chịu hát nữa.

Kể từ đó, ban ngày Vũ Cao Hiến “ phải “ xách đàn (tự chế) đi hát cho cán bộ nghe những bản nhạc vàng, ban đêm anh cũng lại ôm đàn hát tù khúc cho anh em chúng tôi gậm nhấm nỗi buồn, nỗi hận. Anh Đỗ Xuân Tê, một cựu tù Vĩnh Quang, đã viết về nhạc của Vũ Cao Hiến “dòng sáng tác của VCH nặng về ngẫu hứng, anh tự để cho cảm xúc tuôn trào, không gò bó khuôn sáo theo ước lệ và nếu để ý lời nhạc gần như được ghi lại và chuyển tải dưới dạng như kể lể thở than về những hoài niệm một thời, những ước mơ một thuở, lòng có bi phẫn nhưng óc vẫn lạc quan, tình huống có đắng cay nhưng chí khí vẫn hào hùng, dù có đau thương nhưng sẵn sàng chấp nhận. Hình như trong tâm tư người lính trẻ có sự chuẩn bị đối diện với những rình rập không tên, những thách thức của số phận và bằng sức mạnh của tâm linh tôi phục anh ở chỗ trong lúc cố vượt thoát những oái oăm của một thời xã hội nhiễu nhương, quyết không sống chung (nhưng vẫn khoan nhượng thứ tha) cho những kẻ có tâm địa thù dai sau ngày tàn cuộc . . . “ (Đỗ Xuân Tê : Vũ Cao Hiến với 13 Tù khúc khó quên). (http://t-van.net/?p=6194)


Tháng 5 năm 1981, tôi và Trần Lê Việt lên tàu vào Nam, tiếp tục đời tù đày ở trại Z30A, Xuân Lộc. Vũ Cao Hiến và một số anh em khác ở lại, tưởng sẽ được về. Một năm sau gặp lại Vũ Cao Hiến ở Z30A Xuân Lộc, chúng tôi mới biết chỉ có một số được thả, số còn lại bị đưa về Nam Hà, trong số đó có Hiến.

Gần cuối năm 1983, tôi có tên trong danh sách cho về. Trần Lê Việt và Vũ Cao Hiến phải chờ vài tháng sau nữa mới nối gót tôi. Vũ Cao Hiến có một người vợ . . . chưa cưới, sau 9 năm vẫn chung thủy chờ anh. Hiến nhờ tôi đến nhà tập cho nàng hát những tù khúc của chàng để thêm vững lòng chờ đợi. Tôi hoan hỉ làm tròn trách nhiệm với bạn, dù nhà nàng ở rất xa nhà tôi và tôi không có một phương tiện đi lại nào ngòai . . . đôi chân khẳng khiu của mình.
vu_cao_hien_tuong_niem_tu_khuc_medium
Tưởng niệm. Tranh: Trần Thanh Châu.
Ngày Vũ Cao Hiến được thả về, tôi không biết, cũng không được gặp. Cuộc sống sau tù đầy gian nan quá, bấp bênh quá, không có thì giờ cho những “ buổi chiều về hát tình ca buồn nhất “ . Vả lại, Sài Gòn mênh mông xô bồ xô bộn, bạn bè gặp nhau trên đường chỉ kịp nói câu chào hỏi rồi đường ai nấy hối hả đi. Tôi không biết sau ngày ra tù, Hiến có còn cầm đàn được không và những bài hát mà tôi tập cho người vợ chưa cưới của anh thuộc được đến đâu. Một lần, gặp Hiến và mấy người bạn ở một quán cà phê khu Ngã Ba Ông Tạ, chúng tôi chỉ có thể chào hỏi nhau vài câu vì không khí quán quá ồn ào để có thể nói được những chuyện tâm tình như ngày còn ở trong tù. Nhìn vẻ mặt hốc hác của Hiến, tôi biết rằng cuộc sống cũng chẳng ưu đãi anh hơn tôi là bao.

Sau đó, qua vài người bạn, tôi biết tin Hiến đã vượt biên. Bẵng đi một thời gian sau nữa, nghe tin anh đã bị mất tích. Mất tích như thế nào, tôi không biết. Lúc ấy, Sài Gòn sôi động với chương trình HO, cựu tù cải tạo được đi định cư ở Mỹ. Vũ Cao Hiến đã không chờ đợi được, hay nói như anh Đỗ Xuân Tê “quyết không sống chung với những kẻ có tâm địa thù dai“. Và tôi , mải mê với những dự định làm lại đời mình khi cầm được tờ giấy xuất cảnh trên tay, quên bẵng hết mọi sự, cả khuôn mặt người bạn tù xấu số vừa ra khỏi trần gian này trong lúc vượt biển tìm tự do.

Tháng 2 năm 2005, có dịp đi San Jose giới thiệu sách của một người bạn tù, tôi gặp lại Ngọc Phi , nhà thơ hiền lành , bạn tù nhiều năm tại Vĩnh Quang. Phi khoe tôi một đĩa nhạc 13 bài tù khúc của Vũ Cao Hiến, do Đinh Quốc Trực ở Pháp thực hiện để tưởng nhớ Vũ Cao Hiến. Sau khi làm xong, Đinh Quốc Trực cũng lặng lẽ ra đi. Khi trang T.Vấn & Bạn Hữu thực hiện chuyên mục Tù Khúc, tôi đã được Ngọc Phi gởi cho một bản sao nhạc Vũ Cao Hiến. Trần Lê Việt cũng đưa cho tôi hai CD nhạc tù khúc, trong đó có vài bài nhạc của Vũ Cao Hiến do Trần Gia Tỏan hát. Trần Gia Tỏan nay cũng đã là người thiên cổ.

Thế là những dấu vết cuối cùng liên quan đến những bài tù khúc của Vũ Cao Hiến đã biến mất khỏi trần gian buồn bã này. Có còn chăng là những hồi ức về anh, về Đinh Quốc Trực, về Trần Gia Tỏan đọng lại ở những trái tim gìa nua của những bạn bè còn sống. Tôi không biết, người vợ chưa cưới năm nào của Vũ Cao Hiến có còn sống ở đâu đó, một mình hay với một người nào, hạnh phúc hay sầu khổ, hay có thể “ may mắn hơn “ đã nắm tay cùng anh đi xuống biển trong cuộc chạy trốn tìm tự do năm xưa . Và những cô em gái trẻ trung xinh đẹp của Vũ Cao Hiến ngày tôi vừa ra khỏi trại tù được gặp gỡ, bây giờ họ ở đâu, làm gì, có còn nhớ chút nào đến những người bạn của anh mình nay đã trở thành những ông già nặng trĩu cặp kính lão không còn tương lai để tha thiết nên chỉ đêm đêm ôm quá khứ mà hỏi “ bạn bè ơi sao cứ bỏ ta đi “.

Biết làm sao khác hơn được. Tiếng vọng chiến tranh chưa mất hẳn mà tiếng vọng tù đày vẫn mãi âm u khiến cổ họng đắng ngắt mỗi khi nghe lại điệu nhạc tù năm xưa .

Vậy mà tôi lại lựa chọn chính mình làm công việc sưu tập, ghi chép , kiểm chứng những điệu nhạc buốt lòng ấy .

Liệu người chết có còn cảm giác để vui lòng ? hay cũng chỉ là an ủi người sống ?

T.Vấn
Lễ Chiến Sĩ Trận Vong 2012
http://t-van.net/

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chuyện “Ngưng bắn…” kể cho độc giả Bloomington ngày ấy, đã là chuyện quá khứ. 30 tháng Tư năm sau, cuộc chiến trên đất Việt tàn. Chủ nghĩa Cộng sản, nguyên nhân của nạn binh đao, dìm quê hương tôi trong biển máu hàng thập kỷ, cuối cùng đã hưởng hết 70 năm tuổi thọ. Tưởng chuyện đau thương trong một ngày ngưng bắn của gia đình, vì sự an toàn, phúc lợi của loài người, phải trở thành cổ tích. Vậy mà hôm nay, trong thời đại này, chuyện buồn chiến tranh của tôi đang tái diễn...
Mười năm, 20 năm, và nhiều hơn nữa, khi lịch sử kể lại buổi chuyển giao quyền lực hứa hẹn một triều đại hỗn loạn của nước Mỹ, thì người ta sẽ nhớ ngay đến một người đã không xuất hiện, đó là cựu Đệ Nhất Phu Nhân Michelle Obama.
Chiến tranh là chết chóc, tàn phá và mất mát! Có những cuộc chiến tranh vệ quốc mang ý nghĩa sống còn của một dân tộc. Có những cuộc chiến tranh xâm lược để thỏa mãn mộng bá quyền của một chế độ hay một bạo chúa. Có những cuộc chiến tranh ủy nhiệm giữa hai chủ nghĩa, hai ý thức hệ chỉ biến cả dân tộc thành một lò lửa hận thù “nồi da xáo thịt.” Trường hợp sau cùng là bi kịch thống thiết mà dân tộc Việt Nam đã gánh chịu! Hệ lụy của bi kịch đó mãi đến nay, sau 50 năm vẫn chưa giải kết được. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, một nữ chiến binh cộng sản miền Bắc có tên là Dương Thu Hương khi vào được Sài Gòn và chứng kiến cảnh nguy nga tráng lệ của Hòn Ngọc Viễn Đông thời bấy giờ đã ngồi bệch xuống đường phố Sài Gòn và khóc nức nở, “khóc như cha chết.” Bà khóc “…vì cảm thấy cuộc chiến tranh là trò đùa của lịch sử, toàn bộ năng lượng của một dân tộc dồn vào sự phi lý, và đội quân thắng trận thuộc về một thể chế man rợ. Tôi cảm thấy tuổi trẻ của tôi mất đi một cách oan uổng ...
Ngày 30 tháng 4 năm 2025 là một ngày có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong lịch sử Việt Nam đương đại, cũng là dịp để chúng ta cùng nhau hồi tưởng về ngày 30 tháng 4 năm 1975 và những gì mà dân tộc đã sống trong 50 năm qua. Ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã kết thúc chiến tranh và đáng lẽ phải mở ra một vận hội mới huy hoàng cho đất nước: hoà bình, thống nhất và tái thiết hậu chiến với tinh thần hoà giải và hoà hợp dân tộc. Nhưng thực tế đã đánh tan bao ước vọng chân thành của những người dân muốn có một chỗ đứng trong lòng dân tộc.
Điều thú vị nhất của nghề làm báo là luôn có sự mới lạ. Ngày nào cũng có chuyện mới, không nhàm chán, nhưng đôi khi cũng kẹt, vì bí đề tài. Người viết, người vẽ, mỗi khi băn khoăn tìm đề tài, cách tiện nhất là hỏi đồng nghiệp. Ngày 26 tháng 3, 1975, hoạ sĩ Ngọc Dũng (Nguyễn Ngọc Dũng: 1931-2000), người dùng bút hiệu TUÝT, ký trên các biếm hoạ hàng ngày trên trang 3 Chính Luận, gặp người viết tại toà soạn, hỏi: “Bí quá ông ơi, vẽ cái gì bây giờ?”
Sau ngày nhậm chức, Tổng thống Donald Trump đã ban hành hàng loạt sắc lệnh hành pháp và bị một số tòa án tiểu bang chống đối và hiện nay có hơn 120 vụ tranh tụng đang được xúc tiến. Trump cũng đã phản ứng bằng những lời lẽ thoá mạ giới thẩm phán và không thực thi một số phán quyết của tòa án. Nghiêm trọng hơn, Trump ngày càng muốn mở rộng quyền kiểm soát hoạt động của các công ty luật và công tố viên nghiêm nhặt hơn. Trong khi các sáng kiến lập pháp của Quốc hội hầu như hoàn toàn bị tê liệt vì Trump khống chế toàn diện, thì các cuộc tranh quyền của Hành pháp với Tư pháp đã khởi đầu. Nhưng Trump còn liên tục mở rộng quyền lực đến mức độ nào và liệu cơ quan Tư pháp có thể đưa Trump trở lại vị trí hiến định không, nếu không, thì nền dân chủ Mỹ sẽ lâm nguy, đó là vấn đề.
Khi Bạch Ốc công bố công thức tính thuế lên các quốc gia với các thang thuế khác nhau, người ta nhận ra đó chỉ là một một phép tính toán học căn bản, chẳng liên quan đến kinh tế học hay mậu dịch lẫn các dữ liệu thực tế nào cả. Chúng chỉ là những số liệu vô nghĩa và phi lý. Việt Nam không đánh thuế hàng Mỹ đến 90% và đảo hoang của những chú chim cánh cụt có liên quan gì đến giao thương. Điều này thể hiện một đối sách vội vã, tự phụ và đầy cảm tính, cá nhân của Donald Trump nhằm tạo áp lực lên thế giới, buộc các nước tái cân bằng mậu dịch với Mỹ hơn là dựa trên nền tảng giao thương truyền thống qua các hiệp ước và định chế quốc tế. Hoặc nhỏ nhặt hơn, để trả thù những gì đã xảy ra trong quá khứ: Trump ra lệnh áp thuế cả những vật phẩm tâm linh từ Vatican đưa sang Mỹ như một thái độ với những gì đức Giáo Hoàng Francis từng bày tỏ.
Tổng thống Donald Trump vào hôm qua đã đột ngột đảo ngược kế hoạch áp thuế quan toàn diện bằng cách tạm dừng trong 90 ngày. Chỉ một ngày trước đó đại diện thương mại của Trump đã đến Quốc Hội ca ngợi những lợi ích của thuế quan. Tuần trước chính Trump đã khẳng định "CHÍNH SÁCH CỦA TÔI SẼ KHÔNG BAO GIỜ THAY ĐỔI". Nhưng Trump đã chịu nhiều áp lực từ những nhân vật Cộng Hòa khác, các giám đốc điều hành doanh nghiệp và thậm chí cả những người bạn thân thiết, đã phải tạm ngừng kế hoạch thuế quan, chỉ duy trì thuế căn bản (baseline tariff) 10% đối với tất cả những đối tác thương mại.
Trật tự thế giới là một vấn đề về mức độ: nó thay đổi theo thời gian, tùy thuộc vào các yếu tố công nghệ, chính trị, xã hội và ý thức hệ mà nó có thể ảnh hưởng đến sự phân phối quyền lực trong toàn cầu và ảnh hưởng đến các chuẩn mực. Nó có thể bị thay đổi một cách triệt để bởi các xu hướng lịch sử rộng lớn hơn và những sai lầm của một cường quốc. Sau khi Bức tường Berlin sụp đổ vào năm 1989, và gần một năm trước khi Liên Xô sụp đổ vào cuối năm 1991, Tổng thống Mỹ George H.W. Bush đã tuyên bố về một "trật tự thế giới mới". Hiện nay, chỉ hai tháng sau nhiệm kỳ tổng thống thứ hai của Donald Trump, Kaja Kallas, nhà ngoại giao hàng đầu của Liên minh châu Âu, đã tuyên bố rằng "trật tự quốc tế đang trải qua những thay đổi ở mức độ chưa từng thấy kể từ năm 1945". Nhưng "trật tự thế giới" là gì và nó được duy trì hoặc phá vỡ như thế nào?
Hãy bắt đầu niềm tin này với câu nói của John Kelly, tướng thủy quân lục chiến hồi hưu, cựu Bộ trưởng Nội an, cựu chánh văn phòng của Donald Trump (2018): “Người phát điên vì quyền lực là mối đe dọa chết người đối với nền dân chủ.” Ông phát biểu câu này tại một hội nghị chuyên đề về nền Dân chủ ở Mount Vernon vào tháng 11/2024, ngay tại ngôi nhà của George Washington, vị tổng thống đầu tiên, người mở ra con đường cho nền dân chủ và tự do của Hoa Kỳ. Không đùa đâu! Tướng Kelly muốn nói, những người phát điên vì quyền lực ấy có thể giữ các chức danh khác nhau, thậm chí là Tổng Thống, nhưng trong thâm tâm họ là bạo chúa, và tất cả các bạo chúa đều có cùng một đặc điểm: Họ không bao giờ tự nguyện nhượng quyền lực.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.