Hôm nay,  

Có Nên Đòi Bình-Quyền Nam-Nữ Không?

08/03/201200:00:00(Xem: 11046)
“Bread and Roses” (Bánh Mì và Hoa Hồng) là bài hát dành riêng cho ngày Phụ-Nữ Quốc-Tế của James Oppenheim (1882-1932), một văn-hào người Hoa-Kỳ sáng tác vào năm 1912 nói lên sự can-đảm của 14.000 nữ công-nhân đình công tại Lawrence, Massachusetts. Ông cũng chính là người sáng-lập tờ “The Seven Arts”; một tạp-chí quan-trọng của nước Mỹ vào đầu thế-kỷ thứ 20.
Tiếng Đức: “Brot und Rosen” và tiếng Pháp: “Du Pain et des Roses”
Tóm gọn về lịch sử ngày Quốc-Tế Phụ-Nữ bắt đầu từ năm 1857 đến 1911. Theo tư-liệu của Tự-Điển Bách-Khoa Toàn-Thư ghi rằng:
Ngày 8 tháng 3 năm 1857, các công nhân ngành dệt chống lại những điều kiện làm việc khó khăn và tồi tàn của họ tại Thành phố New York: 12 giờ làm việc một ngày. Hai năm sau, cũng trong tháng 3, các nữ công nhân Hoa Kỳ trong hãng dệt thành lập công đoàn (syndicat) đầu tiên đã được bảo vệ và giành được một số quyền lợi.
50 năm sau, ngày 8 tháng 3 năm 1908, 15.000 phụ nữ diễn hành trên các đường phố New York để đòi được giảm giờ làm việc, lương cao hơn và hủy bỏ việc bắt trẻ con làm việc. Khẩu hiệu của họ là "Bánh mì và Hoa hồng" (Bread and Roses). Bánh mì tượng trưng cho bảo đảm kinh tế gia đình, hoa hồng tượng trưng cho đời sống tốt đẹp hơn. Sau đó, xã-hội Hoa-Kỳ tuyên bố Ngày Quốc-Tế Phụ-Nữ là ngày 28 tháng 2 năm 1909.
Trong hội-nghị Phụ-Nữ Quốc-Tế thứ II tổ chức ngày 8 tháng 3 năm 1910, 100 đại biểu phụ-nữ thuộc 17 nước đòi quyền bầu cử cho phụ-nữ. Chủ tịch là bà Clara Zetkin, người Đức, đã đề nghị chọn một ngày Quốc-Tế Phụ-Nữ để nhớ ơn những người đã đấu tranh trên toàn thế giới và hội nghị đã chọn ngày 8 tháng 3 hằng năm.
Từ 1950 tại Việt Nam, vào ngày mùng 6 tháng hai âm lịch mỗi năm đều có tổ chức ngày lễ Hai Bà Trưng ở Sài Gòn, và sau đó đã dùng ngày này làm ngày Phụ-Nữ. Năm nay, kỷ-niệm lễ Hai Bà-Trưng sẽ rơi vào thứ ba 27, tháng 3, 2012 dương-lịch.
Đến 8 tháng 3 năm 1975, Liên Hiệp Quốc bắt đầu chú ý và tổ chức ngày Phụ-Nữ-Quốc-Tế.
Năm 1977, nghĩa là hai năm sau, Liên Hiệp Quốc quyết định mời các nước dành một ngày để nói lên quyền lợi của người phụ nữ và hòa bình thế giới. Và ngày 8 tháng 3 được chọn để trở thành ngày lễ chung cho nhiều quốc gia trên thế giới.
Trên trang báo: “phattuvietnam.net” tác-giả: Nguyễn-Phúc-Bửu-Tập có đoạn viết như sau:
Trong số học giả nghiên cứu vị thế của người đàn bà trong đạo Phật và chú trọng tới 1 câu nói của đức Phật, ta phải kể bà I.B. Horner tác giả cuốn Women in Primitive Buddhism “Địa vị người đàn bà trong đạo Phật nguyên thủy”.
Nữ học giả I.B. Horner chứng minh bằng phương pháp phân tích là trong khoảng sinh thời đức Phật, việc phân biệt giữa nam tỳ kheo và tỳ kheo ni không bao giờ đặt ra, đàn bà cũng như đàn ông đều có thể trở thành A la hán. Sau khi đức Phật nhập diệt, đạo chia thành nhiều trường phái, thời kỳ gọi là Hinayana bắt đầu, sinh ra mối tin tưởng là người nữ không thể tu thành chánh quả. Vào khoảng đầu tây nguyên, trường phái Đại thừa Mahayana hưng thịnh, lại có niềm tin mới là người nam và người nữ bình đẳng trong việc hành trì, vì tất cả yếu tố nam hay nữ đều là "không" (theo thuyết Bát nhã). Trường phái Đại thừa lại làm phấn khởi niềm tin ở đức Phật A Di Đà, hết sức thông cảm sự hèn yếu của người đàn bà, và dạy là tất cả người nữ chỉ niệm danh A Di Đà là được tái sanh ở Tây phương cực lạc. Do đó, địa vị người đàn bà được tái tạo và vô cùng ưu đãi.
Lý luận đanh thép, dựa trên dữ kiện, buộc ta tin là các điều mục đặt ra các luật lệ khe khắt làm giảm giá trị người nữ tu không phải do đức Phật quyết định vào thời nguyên thủy.
Một điều khoản khác làm cho người đời sau trách cứ đức Phật thiếu công bằng với người nữ là việc: người đàn bà tu đắc đạo, muốn thành Phật, phải đổi xác thành người đàn ông. Trên, ta đã thuật chuyện nàng Long Thi trong "Long Thi nữ kinh". Theo giáo sư Naresh Mantri trong tập On Women Attaining Buddhahood ("Luận về người đàn bà đắc đạo", Young East Review, 1962), sự tích người nữ đắc đạo phải biến xác được thuật lại trong nhiều bổn kinh Phật, ngoài bổn "Long Thi nữ kinh": kinh Saddharmapundarika sutra ("Diệu Pháp Liên Hoa") kể chuyện nàng công chúa Nara phải hóa thân thành người nam để đắc đạo ; kinh Astarahasrika Prajnaparamita kể chuyện đức Phật biến xác cho nàng Gandadeva thành Phật. Nhiều sự tích khác về việc hóa thân thành Phật cũng được ghi trong các bộ kinh Hán tạng. Giáo sư Mantri cũng tóm lược trong bài dẫn trên các điểm người học Phật giải thích từ trước đến nay bào chữa lập trường bình đẳng nam nữ trong kinh Phật, mà ta có thể dẫn vài trường hợp.
Vào khoảng đầu kỷ nguyên tây lịch, trường phái Đại thừa phát triển mạnh, có vô số nữ tín đồ tình nguyện xuất gia. Ngày đó, tôn giáo sống dưới chế độ quân chủ, và triều đình vua chúa sống hoàn toàn trong không khí đạo giáo. Bởi lẽ đó, người lãnh đạo tôn giáo phải tìm một lối thoát cho mối mâu thuẫn trong giáo lý. Một bên, phải làm cho người đàn bà tin Phật hiểu là họ được giải thoát ; một bên là không thay đổi được ý niệm ngũ chướng đã được đem vào kinh từ trước (người nữ không thể thành đại vương cadravartin, và thành bồ tát), và ý niệm này là căn bản của đời sống vua chúa trong nam quyền. Vậy, chỉ còn cách tạo ra ý niệm đổi xác, làm cho người đàn bà hóa ra đàn ông trước khi đạt chánh quả.
Cũng vào thời kỳ này, năm trăm năm sau niết bàn, trong trường phái đại thừa, dựng lên niềm tin mãnh liệt vào ý niệm tha lực của đức Phật A Di Đà, bà Horner vừa nói ở trên. Cõi Cực lạc phương tây, nơi đức Phật A Di Đà đang giáo hóa, được Phật Thích Ca tả trong kinh A Di Đà chỉ có người đàn ông mà không có đàn bà. Vì sao? Nguyên do lớn nhất của đau khổ là dục vọng (lust, passion, sexual desire). Muốn thực hiện cực lạc trong thế giới phương tây, phải tiêu diệt hoàn toàn dục vọng, không có đàn ông cũng như không có đàn bà. Cái ý niệm phân cách nam nữ bị đào thải hoàn toàn.

Ý niệm không dục vọng này được thể hiện rõ ràng trong kinh Bát nhã (sắc, không). Giáo sư Mantri dẫn đoạn kinh Vajracchekida Prajnaparamita dạy là "dù con người có đủ ba mươi hai tướng tốt cũng không thành Phật. Đức Phật vô tướng, không nam không nữ".
Hiểu thấu đáo đoạn kinh này tức là hiểu được sự tái tạo địa vị người đàn bà trong đạo Phật, không bao giờ phải lệ thuộc vào một yếu tố phép lạ mầu nhiệm để đạt được giải thoát, mà tự mình thực hiện cái quyền làm người và thành Phật của chính mình. (ngưng-trích).
Tôi rất đồng ý với kết-luận trên của bà I.B Horner về vai-trò của người phụ-nữ trong Phật giáo.
Chúng ta thử tìm-hiểu về vai-trò người phụ-nữ trong Kinh Cựu Ước của Do-Thái và Ki-Tô giáo khi nói về người nữ đầu tiên được Thiên Chúa dựng lên từ một chiếc xương sườn số 7 bên trái của Adam đó là Eva. Bà được Adam gọi là “bà Mẹ của chúng sinh”. Do nghe lời một con rắn độc, bà đã ăn trái cấm nơi vườn Eđen ( tức vườn địa đàng), sau đó cũng đã xúi-dục Adam ăn theo, gây nên tội tổ tông cho loài người.
Dựa theo tư-liệu của trang: “sachhiem.net” đã ghi lại như sau:
TỘI TỔ TÔNG THEO GIÁO ĐIỀU CỦA KI TÔ GIÁO LÀ GÌ ?
Ông Adam và bà Eva đã sống theo lời Chúa dạy trong vườn Địa Đàng ấy nhiều ngày. Nhưng một hôm, một con rắn ( về sau sẽ gọi là hiện thân của quỷ Satan) đã xúi dục bà Eva không vâng lời Chúa bằng cách nói rằng:”Bà sẽ không chết đâu. Vì chúa biết rằng khi bà ăn trái ấy thì mắt bà sẽ được mở ra, và bà sẽ giống như Chúa là biết cái gì là tốt cái gì là xấu ". Bà Eva đã nghe theo lời xúi dục của con rắn mà ăn trái cấm ấy, và xúi ông Adam ăn nữa. Sau khi ăn trái cấm, ông Adam và bà Eva cảm thấy thân hình trần truồng của mình là đáng hổ thẹn nên đã lấy lá che bộ phận sinh dục.
Vì ăn trái cấm cho nên hai người này đã phạm cái tội không vâng lời Chúa, ngạo mạn không xem Chúa là người chăn dắt và tìm cách xác định được như chúa là biết cái gì là tốt, cái gì là xấu. Tội này là cái tội đầu tiên mà ông Adam và bà Eva phạm với Chúa, nên được gọi là tội ban đầu hay nguyên tội (original sin).
Vì vậy, Chúa đã phạt Adam và bà Eva bằng cách lấy lại các món quà siêu phàm mà Chúa đã ban cho hai người. Hai người bị Chúa đuổi ra khòi vườn Địa Đàng, từ nay ông Adam phải làm lụng vất vả mới có ăn, bà Eva phải chịu mang nặng đẻ đau mới sinh được con, hai người sẽ phải chết, và sẽ phải có bản chất thấp kém : trí tuệ bị đen tối, ý muốn xấu xa, và thiếu khả năng hòa hợp tâm linh với chúa.
Giáo điều của Ki tô giáo nói rằng vì ông Adam và bà Eva phạm nguyên tội, mà hai người là thủy tổ của loài người nên tất cả mọi người trên thế gian này vì là con cháu của ông Adam và bà Eva thì phải chịu mang di truyền cái tội ấy. Vì vậy cái tôi ban đầu của ông Adam và bà Eva được gọi là “tội tổ tông”. (Ngưng trích.)
Một cô bạn rất tinh-nghịch của tôi đã kể rằng: ngày xửa ngày xưa có một phụ-nữ xinh đẹp thấy Thượng-Đế không được công-bình cho lắm nên cô viết một thỉnh-nguyện-thư kêu xin Ngài phải chia đều trách-nhiệm cho cả hai giới nam & nữ. Người nữ mang nặng thì người nam phải đẻ đau, chứ cớ sao buộc phái yếu phải chịu cực-khổ nhiều như thế. Vì sự khẩn-thiết van nài nên Thiên-Chúa đồng-ý. Năm sau đó, cô lập gia-đình và đến ngày khai-hoa-nở-nhụy thì anh láng-giềng ôm bụng rên xiết, lăn-lộn đau đớn chứ không phải người chồng đang cầy ruộng ở xa chưa về nhà kịp. Liền sau đó người phụ-nữ xin rút lại lời cầu và xin chấp nhận làm phận đàn bà mang nặng, đẻ đau như tiền-kiếp đến nay. 
Tôi cũng nhớ lại một câu chuyện 5 năm sau ngày mất nước 30, tháng 4, 1975; lúc tôi đang theo học trường Sư-Phạm Saigon (nằm trên đường Thành-Thái, khi xưa). Những ngày cuối tuần, sinh-viên như chúng tôi phải đi làm lao-động “đào kinh thủy-lợi”. Tôi may mắn có tài về âm-nhạc nên được ưu-tiên trong nhiệm vụ đàn guitar thùng và hát giúp vui, mong mọi người lên tinh-thần và hăng-hái theo câu “Lao-Động là Vinh-Quang, Lang-Thang là Chết Đói”. Đồng thời tôi có nhiệm vụ rót nước vào những ly nhựa cùng với động tác đưa vào miệng cho các sinh-viên được uống trong giờ giải-lao vì tay của họ bị dính đầy bùn lầy.
Trong tổ công-tác của chúng tôi có một chị là đoàn-viên với nhiều thành-tích trong trường về đòi bình-quyền nam-nữ. Chính vì vậy chị phải làm gương bằng cách đảm trách công việc nặng nề nhất trong lao-động như những nam-sinh lực-lưỡng; đó là khiêng đá để đắp trên bờ đê. Hôm ấy, vì vận-động quá sức của một phụ-nữ chân yếu tay mềm, giữa công-trường lao-động chị đã té xỉu và nằm liệt giường cả tháng sau đó cũng vì cái tội muốn so tài, đọ sức với các đấng mày râu.
Cũng là thân-phận phụ-nữ, chắc chắn tôi không bao giờ mong đòi hỏi bình quyền với nam giới về mặt lao-động tay chân như câu chuyện trên.
Bất cứ giới-tính nào cũng mong được quý trọng, thương mến trong xã-hội loài người; riêng tôi thường tâm-niệm rằng: đàn ông phải là cột trụ trong gia-đình, là bóng mát của tàng cây cổ-thụ che chở cho đàn bà & con trẻ. Nhân ngày Phụ-Nữ Quốc-Tế 8, tháng 3, 2012. Tạ-ơn phu-quân yêu quý của riêng tôi. Cũng xin phép thay mặt cho những phụ-nữ trên toàn thế-giới tạ-ơn những đấng “Trượng-Phu Nam-Nhi-Chi-Chí” trên cõi đời này; những ai đã và đang sống trọn vẹn như bài thơ sau của thi-hào Nguyễn-Công-Trứ:
“Thông-minh nhất nam-tử
Yêu vi thiên-hạ kỳ
Trót sinh ra thì phải có chi chi,
Chẳng lẽ tiêu-lưng ba vạn sáu.
Đố kĩ sá chi con tạo,
Nợ tang-bồng quyết trả cho xong.
Đã xông pha bút trận thì gắng gỏi kiếm cung,
Cho rõ mặt tu mi nam tử.
Trong vũ-trụ đã đành phận-sự,
Phải có danh mà đối với núi sông.
Đi không chẳng lẽ lại về không?”
(www.diamondbichngoc.com )

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi rất thích khoa nhân chủng nhưng không có cơ may đến trường để được truyền thụ một cách bài bản về ngành học thú vị này. Hoàn cảnh sống, nói nào ngay, cũng không mấy thích hợp cho nhu cầu tự học. Suốt ngày (và suốt đời) tôi chỉ loanh quanh hàng quán nơi mà những kẻ hay lê la thường nói rất nhiều, dù sự hiểu biết của họ vốn không được bao nhiêu. Ngoài giới hạn về kiến thức, mấy ông bạn đồng ẩm còn có cái tật rất hay tranh cãi (và luôn cãi chầy cãi cối) nên mọi thông tin, từ bàn nhậu, đều không được khả xác hay khả tín gì cho lắm.
“Tham nhũng chính trị, lệch lạc tư tưởng, băng hoại đạo đức và hủ bại về lối sống. Đây là những kẻ thù rất nguy hiểm của Đảng, cần phải loại bỏ.” Tạp chí Xây Dựng Đảng (XDĐ) đã báo động như thế trong bài viết ngày 26/11/2023...
Đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) nhìn nhận tình trạng “trẻ hóa” trong suy thoái “tư tưởng chính trị ” và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đang gây khó khăn cho công tác “xây dựng, chỉnh đốn đảng”...
Năm 2024 là năm bầu cử, một năm gay go thử thách, và đề tài yêu ghét dù muốn hay không muốn đã trở lại trên các trang báo, trong các buổi tranh luận trong gia đình, ngoài xã hội. Chúc bàn tiệc trong năm của quý vị rôm rả những câu chuyện, những cuộc đối thoại bổ ích hai chiều, những thay đổi tốt đẹp. Và xin cảm ơn quý thân hữu, thân chủ đã hỗ trợ, gắn bó cùng hành trình với Việt Báo trong hơn 31 năm qua. Sau cùng là lời tri ân đến các độc giả Việt Báo: chính quý vị, những người đọc khó tính là thành trì giúp Việt Báo trở thành một tờ báo uy tín, chuyên nghiệp.
Năm 2023 tiến vào những ngày cuối cùng, nó sẽ đi qua và không bao giờ trở lại. Lịch sử sẽ đi qua nhưng những việc làm của con người sẽ tồn tại với sự khôn ngoan và ngu ngốc của đa số. Cụm từ ‘con-người-đa-số’ chỉ định ý muốn chung của đa số người. Và ‘con-người-thiểu-số’ đành phải tuân theo. Trò sinh hoạt dân chủ luôn luôn là con dao hai lưỡi có hiệu quả tùy thuộc sở thích của con người đa số. Sở thích? Một thứ tạo ra tốt lành hoặc khổ nạn. Đúng ra là cả hai, nhưng có một trong hai sẽ lớn hơn, đôi khi, lớn gấp bội phần. Nếu khổ nạn quá lớn thì cuộc sống chung sẽ thay đổi, có khi lâm vào mức tồi tệ. Chẳng hạn như trường hợp nước Đức dưới thời Hitler. Ý muốn của con người đa số đam mê nồng nhiệt ý muốn của Hitler. Cho ông ta cơ hội dẫn đầu một quốc gia quyền lực, tạo ra hiệu quả cuộc chiến thế giới thứ hai. Hậu quả tàn khốc đó do ai? Hitler? Đúng một phần.
“Tự diễn biến, tự chuyển hóa” trong Lực lượng vũ trang nhân dân là mối lo hàng đầu của đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay. Bằng chứng này đã được Tổng Bí thư đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng đưa ra tại Hội nghị Đảng ủy Công an ngày 20/12/2023 tại Hà Nội, và trong nội dung các bài viết trên báo chí chính thống của nhà nước liên quan đến Quân đội...
Người ta nên áp dụng đạo đức vào tài chính trị của Henry Kissinger như thế nào? Làm thế nào để người ta quân bình những thành tựu với những hành vi sai trái của Kissinger? Tôi đã vật lộn với những vấn đề đó từ khi Kissinger là giáo sư của tôi, và sau này là đồng nghiệp tại Đại học Harvard. Vào tháng Tư năm 2012, tôi đã giúp phỏng vấn ông trước một số lượng lớn cử toạ tại Harvard và hỏi liệu ông có làm điều gì khác đi trong thời gian làm ngoại trưởng cho các Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon và Gerald Ford không. Lúc đầu, ông nói không. Suy nghĩ lại, ông nói rằng ước mình là đã hoạt động tích cực hơn ở Trung Đông. Nhưng ông không đề cập đến Campuchia, Chile, Pakistan hay Việt Nam. Một người phản đối ở phía sau hội trường hét lên: "Tội phạm chiến tranh!"
Việt Nam có còn “độc lập” với Trung Quốc hay không sau chuyến thăm Hà Nội của Tổng Bí thư, Chủ tịch nhà nước Tập Cận Bình là thắc mắc của người dân Việt Nam. Ông Tập có mặt ở Việt Nam từ 12 đến 13 tháng 12 năm 2023 và đạt được cam kết của Tổng Bí thư đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng về “xây dựng Cộng đồng chia sẻ tương lai Việt Nam-Trung Quốc”.
Ngày nay, Chiến lược Phòng thủ Quốc gia của Hoa Kỳ – giống như chiến lược Chiến tranh Lạnh tạo chuẩn mực cho tư duy chiến lược trong những năm từ thập kỷ ‘50 đến ’80 – bị chi phối bởi một tác nhân đe dọa chính, đó là Trung Quốc. Điều này vừa cung cấp thông tin vừa tạo điều kiện cho tất cả các mối đe dọa lớn khác có thể xảy ra: Nga, Iran và Bắc Triều Tiên. Giống như thời kỳ Chiến tranh Lạnh, Hoa Kỳ hiện đang lâm vào một cuộc cạnh tranh với đối thủ duy nhất của mình, một cuộc cạnh tranh có khả năng bỏ rơi các thành tựu chính trị, kinh tế và công nghệ. Hoa Kỳ cũng đang ở trong một cuộc chạy đua vũ trang hiện đại, và trong một số trường hợp, chơi trò đuổi bắt và tranh đua để giành tình hữu nghị, gây ảnh hưởng lên các quốc gia khác trên thế giới.
Rồi vào ngày 12/12/2023, tức chỉ sau ba tháng, Việt Nam lại long trọng tiếp đón Chủ Tịch Tập Cận Bình và nói rằng hợp tác và hữu nghị với Trung Quốc là lựa chọn chiến lược của Việt Nam...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.