Hôm nay,  

Nhạc Trần Duy Đức: Buồn Như Khúc Đàn Tiền Kiếp

27/06/201100:00:00(Xem: 7306)

Nhạc Trần Duy Đức: Buồn Như Khúc Đàn Tiền Kiếp

tranduyduca-large-contentTrần Duy Đức.

Phan Tấn Hải

Trần Duy Đức trước tiên là một nghệ sĩ, một người sống lãng đãng, y hệt như không bám rễ vào mặt đất này. Đó là cảm nhận từ những ngày đầu tiên tôi biết Trần Duy Đức. Và suy nghĩ đó cũng vẫn giữ cả nhiều năm sau, khi tôi nghe nhạc của anh nhiều hơn, và cũng quen với rất nhiều những người bạn của anh -- ở địa cầu này, ở Quận Cam này, ở một cõi trần gian hoặc là không thể hiểu, hoặc là sẽ hiểu có thể rất là nhầm lẫn.
Trần Duy Đức là một nhạc sĩ, một người sáng tác nhạc. Cũng như rất nhiều nhạc sĩ lưu vong trên cõi đời này, Trần Duy Đức không sống bằng nghề nhạc. Nhưng anh say mê nhạc, và gắn bó với âm nhạc theo kiểu riêng, một kiểu độc đáo rất riêng biệt.
Mỗi người đều có một định mệnh. Hay nếu bạn muốn, theo một cách giải thích khác, thì gọi là nghiệp. Nhạc của Trần Duy Đức rất là buồn, một vẻ đẹp của nỗi buồn cổ kính, rất xưa cổ và rất quý tộc. Y hệt như người đứng ngoài thế giới nàỳ, hay đứng từ đỉnh núi chiêm ngắm cuộc đời, và rồi nhấc đàn lên, sáng tác.
Bạn có thể thấy ở một đối nghịch khác: nhạc sĩ lưu vong Nguyễn Đức Quang cũng không sống bằng nghề nhạc, nhưng âm nhạc của người nhạc sĩ quá cố này rất mực gắn bó với cuộc đời, tới mức có thể gọi là dấn thân, cả lời và nhạc đều rất nồng nhiệt với đời sống.
Bởi vậy, điều lạ là hai nhạc sĩ có hai dòng nhạc trái nghịch này là có giao tình thân thiết – họ là hai nhạc sĩ của hai thế hệ cách biệt, và của cả hai dòng nhạc rất là dị biệt, và họ đã từng thân thiết chia sẻ với nhau kinh nghiệm, thí dụ như việc sử dụng nhu liệu ghi nốt nhạc, và cũng đã chia sẻ các quan tâm với nhau.
Có cách nào để có thể nói gọn một lời về nhạc Trần Duy Đức" Thực ra, không lời nào nói tóm gọn được, dù chúng ta có muốn viết theo kiểu lý lịch vài dòng. Bởi vì, mỗi ca khúc của Trần Duy Đức đều hiện diện kiểu độc đáo riêng.
Nhưng cảm xúc đầu tiên, và là một cảm xúc bạn có thể giữ hoài khi nghe nhạc Trần Duy Đức: đó là một nỗi buồn, rất là buồn, buồn như tiếng mưa rơi, buồn như tiếng nhạc cổ Nhật Bản (thí dụ, khi bạn nghe ca khúc Khúc Mưa Sầu), buồn như thương tiếc một người tình đã xa (ca khúc: Chỉ Nhớ Người Thôi Đủ Hết Đời), buồn như khi chợt thấy mình cô đơn (ca khúc: Hoa Ơi Có Biết Lòng Ta Nhớ Người, buồn như lời nhắn gởi tới người (ca khúc: Nếu Có Yêu Tôi), buồn như mối tình rơi theo nắng tan nhanh (ca khúc: Tan Theo Ngày Nắng Vọi), kể cả buồn như một nhà thơ nhìn thấy mình sắp bước vào một cõi lạ thật xa (ca khúc: Ta Thấy Hình Ta Những Miếu Đền, phổ thơ Mai Thảo), và tương tự với tất cả các ca khúc khác...
Chúng ta không thấy bao nhiêu niềm vui trong nhạc Trần Duy Đức. Đúng ra, có thể nói rằng, niềm vui đó phải là niềm vui rất ẩn kín, một niềm vui khi “ngộ” ra tiếng nhạc lòng mình... và rồi nhạc sĩ chỉ ghi xuống giấy, chỉ vẽ lại những nốt nhạc lạ trong lòng mình.
Trần Duy Đức là như thế. Tiếng nhạc gầy và buồn như con người.
Trần Duy Đức đã phổ thơ của nhiều thi sĩ, trong đó có thơ Du Tử Lê, Mai Thảo, Ngô Tịnh Yên, Nguyễn Dũng Tiến... Nhưng một ca khúc thời thơ trẻ ở quê nhà của anh đã như dường ghi một dấu ấn tiền định cho nét nhạc sau này: Đó là bài Khúc Mưa Sầu, lời và nhạc của Trần Duy Đức. Bài này anh sáng tác khi đồn trú ở Pleiku năm 1971, lúc đó anh là một chiến binh trẻ.
Hãy nghe những dòng đầu của ca khúc này:
“Nằm nghe ngày tháng rơi đều
ngoài hiên mưa đọng bọt bèo
Tình nằm trong nấm mộ rêu
Trở mình nghe những quạnh hiu
Ôi nằm nghe ngoài hiên giọt rớt bên thềm
nằm yên ta gọi tình quên...”
Và rồi những dòng cuối ca khúc này:
“Cầm tay một cánh hoa tàn
Hồn xưa chưa trở về ngàn
Bàng hoàng nghe những giọt tan
Giọt hồn xa tiếng thở than
Ôi về đâu hồn xưa một cánh hoa tàn
Lặng yên ta gọi hồn hoang.”
Đó là những nốt nhạc nghe như tiếng mưa buồn giữa núi rừng Pleiku.
Và rồi những tiếng mưa đó đã đi theo tận cùng cuộc đời với anh. Trong rất nhiều ca khúc khác, chúng ta cũng thấy lại hình ảnh mưa buồn này, tuy là bối cảnh mới và cảm xúc mới.
Thí dụ, ca khúc Anh Đã Ngủ Yên Trên Quê Hương, với lời: “Ngoài trời vẫn còn mưa. Người nằm dưới mộ sâu. Ôi thiên thu phôi phai hình hài...”
Hay như, ca khúc Dòng Suối Trăm Năm, với lời: “Chẻ đôi sông núi đêm bưng mặt. Mưa quấn khăn vào sầu ấu thơ. Chẻ đôi thân thế mù tăm tích...”
Nhưng rồi, ngay cả hình ảnh nắng trong nhạc Trần Duy Đức cũng buồn thê thiết.
Thí dụ, ca khúc Em Hiểu Vì Đâu Chim Gọi Nhau, với lời: “...Ở chỗ nhân gian không thể hiểu. Em còn nắng gió tới mai sau. Thấy nhau mà lệ không sao chảy...”
Hay như, ca khúc Khi Tưởng Tới Người Vắng Mặt, với lời: “Hay em bỏ tôi đi trong một buổi chiều. Nắng ăn lốm đốm da em. Rồi em bỏ tôi đi. Anh ở lại như con sâu kèn...”

Hay như, ca khúc Tan Theo Ngày Nắng Vội, với lời: “Phải rồi, em cũng như sương. Phải rồi, em cũng như mây. Phải rồi, em cũng như mưa. Tan theo ngày nắng vội. Phải rồi, em cũng như ta...”
Hay như, ca khúc Trong Tay Thánh Nữ Có Đời Tôi, với lời: “Hãy hỏi nắng đi rồi em sẽ hay. Tôi gầy như lá, lá như mây. Rừng khuya thổi suốt bao tâm...”
Một trong những người trân trọng nhạc Trần Duy Đức là nhà thơ Du Tử Lê.
Trong bài viết nhan đề “Lộ trình thơ, nhạc Trần Duy Đức” trên trang ttp://www.dutule.com, nhà thơ Du Tử Lê nhận xét:
“...Họ Trần muốn đi tới những chân trời mà, điểm gặp cũng là chỗ giao thao giữa thơ và âm nhạc. Họ Trần muốn đi tới phần ngọn nguồn tinh ròng hay thẳm cùng đáy sâu thử thách, nơi những rung động cảm thức không chia hai. Chỉ là một. Sự là-một, rốt ráo của thi ca vốn chưa từng phân, ly, chưa từng ngăn cách....
Chính tính bất khả phân kia, nơi đời kiếp âm nhạc mang tên Trần Duy Đức, đã làm thành một Trần Duy Đức, riêng. Rất riêng.”(hết trích)
Trong phong cách sáng tác nhạc, Trần Duy Đức vẫn là một người khó tính, bất kể rằng anh lãng đãng một trời thơ mộng, bất kể rằng anh đi lại trong cuộc đời thực với kiểu rất trầm, rất buồn và rất lặng lẽ.
Anh khó tính tới nỗi có khi “Đức nghiền ngẫm phổ nhạc một bài thơ lâu tới cả nửa năm hay một năm, khi đã có nhiều biến khúc khác nhau và rồi chọn được một biến khúc hài lòng nhất, thì Đức mới chịu thôi,” theo lời của nhà thơ Du Tử Lê.
Trong một cuộc phỏng vấn trên Việt Báo, nhà thơ Du Tử Lê đã giải thích, “Đức còn một điểm lạ nữa, là phổ thơ tự do mà không cần đổi lời hay cắt ngắn gì. Như bài thơ tự do 'Khi Tưởng Tới Người Vắng Mặt' được Đức phổ nhạc xong, thì tôi rất mực kinh ngạc. Chỉ có vài nhạc sĩ Việt Nam tới chỗ như thế, ngoài khả năng biến thơ tự do thành nhạc, còn là một tấm lòng trân trọng với thơ và nhà thơ...”
Nhà thơ Du Tử Lê tâm sự về những cơ duyên quen với nhạc sĩ Trần Duy Đức.
Năm 1982, họ quen nhau tại quán cà phê Tay Trái của Du Tử Lê. Lúc đó, Đức mới ở Việt Nam qua. Khi các nhạc sĩ đã buông đàn xuống, Đức mới nói với Việt Dzũng là Đức muốn hát. Du Tử Lê mời Đức lên sân khấu. Đức cầm đàn, hát hai ca khúc Đức phổ thơ từ thơ Du Tử Lê, và một ca khúc Đức phổ từ thơ Cung Trầm Tưởng.
Khi Đức rời sân khấu, về chỗ ngồi, mọi người trong quán vẫn còn ngây ngất - anh đã đem những âm vực lạ đưa vào thơ, và khi anh ngưng tiếng hát, các nốt nhạc vẫn còn như lơ lửng giữa trời. Họ thân nhau từ đó. Đức giải thích là Đức đọc thơ Lê từ báo Văn, thời Đức đóng quân ở Pleiku. Sau đó, tuần nào, anh em cũng mời Đức tới dự chương trình.
Và rồi như thế, Trần Duy Đức đã xuất hiện một cách dị thường, cả trong cuộc đời và âm nhạc.
Trong một bài viết năm 2003, tôi đã ghi lại (đúng vậy, gần một thập niên trước, tôi đã viết một bài về nhạc Trần Duy Đức) một số hình ảnh như sau:
“...Có lẽ những nét lạ lẫm dị thường trong Đức là do ảnh hưởng từ một tiền kiếp nào đó, theo nhận xét của một số bằng hữu. Nhà văn Lê Hà Nam, trong bài viết "Trần Duy Đức, Con Chim Đến Từ Núi Lạ Ngứa Cổ Hót Chơi" hồi năm 1992, đã ghi nhận:
"Tiếng cổ cầm Koto của người Phù Tang thời dựng nước vuốt theo từng nốt nhạc Trần Duy Đức, như sóng bạc đầu trên âm hưởng quần đảo, nghìn xưa. Phạm Công Thiện, có lần kể, một đạo sĩ Mỹ, bạn anh, từ Tây Tạng trở về, gặp Trần Duy Đức, đã buột miệng tiết lộ với anh rằng tiền kiếp Trần Duy Đức vốn là đạo sĩ của dòng tu khổ hạnh ở Kyoto. Dòng tu lâu đời nhất của xứ Thần Mặt Trời, tới nay, vẫn còn trên những đỉnh núi tuyết..."
Một Thiền Sư Nhật Bản cổ thời" Dáng Đức gầy, đầu hói gần như đầu các sư, đôi mắt sâu thẳm và đôi tai tinh luyện, chụp bắt được những âm thanh lạ lùng... Có phải là do cơ duyên nhiều kiếp trước"”(hết trích)
Hiển nhiên, chuyện tiền kiếp không phải ai cũng biết. Các đạo sĩ có thể biết, nhưng người đời thường, kiểu như chúng ta là chịu thua. Chúng ta chỉ biết rằng, xuyên suốt các ca khúc của Trần Duy Đức vẫn là một nỗi buồn rất là thơ mộng, thê thiết, lãng đãng và như những giọt mưa rơi từ tiền kiếp.
Phan Tấn Hải, 2011
GHI CHÚ:
ĐÊM NHẠC THÍNH PHÒNG TRẦN DUY ĐỨC & BẰNG HỮU
Bảo trợ bởi Hội Ái Hữu Phố Núi Pleiku, vào lúc 6:30pm Chủ Nhật 28-8-2011.
Tại quán Emerald Bay, 5015 W Edinger Ave. Ste V., Santa Ana, California.
Có góp mặt của nhiều văn nghệ sĩ để cùng ôn lại những kỷ niệm với Trần Duy Đức.
Ca sĩ: Anh Dũng, Như Mai, Ninh Cát Loan Châu, Hương Thơ… và những ca sĩ nổi danh đã từng hát nhạc TDĐ. Nhạc sĩ: Nguyễn Đình Toàn, Vũ Thành An, Hoàng Khai Nhan và
Trần Duy Đức... Thi Sĩ: Tô Thùy Yên, Ngô Tịnh Yên, Nguyễn Nam An…
MC và Điều Hợp Chương Trình: Nhà Văn Bùi Bảo Trúc, Như Hảo, và Phan Dụy
Ban nhạc: Do nhạc sĩ Lê Ngọc đảm trách.

Ý kiến bạn đọc
28/06/201104:47:58
Khách
Hi Be Ha,
Buoi ca nhac nay co ve hay va doc dao. Neu duoc hom do Duong Ba, Chau va Be Ha di xem.
Chao.
Duong Ba.
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ít lâu nay, vấn đề “bảo vệ an ninh quốc gia” được nói nhiều ở Việt Nam, nhưng có phải vì tổ quốc lâm nguy, hay đảng muốn được bảo vệ để tồn tại?
Xuất hiện gần đây trong chiến dịch tranh cử tổng thống, Donald Trump, ứng cử viên đảng Cộng hòa, đã lên tiếng đe dọa là sẽ không bảo vệ cho các đồng minh thuộc khối NATO trong trường hợp bị Nga tấn công. Ý kiến này đã dấy lên một cuộc tranh luận sôi nổi tại châu Âu, vì có liên quan đến việc răn đe Nga và ba kịch bản chính được đề cập đến khi Donald Trump trở lại Nhà Trắng vào năm 2025 là liệu Liên Âu có nên trang bị vũ khí hạt nhân chăng, Pháp có thể tích cực tham gia không và Đức nên có tác động nào.
Tôi không biết chính xác là Văn Trí đã đặt chân đến Đà Lạt tự lúc nào nhưng cứ theo như ca từ trong nhạc phẩm Hoài Thu của ông thì Cao Nguyên Lâm Viên ngày ấy vẫn hoang vu lắm. Ngoài “núi rừng thâm xuyên”, với “lá vàng rơi đầy miên man”, cùng “bầy nai ngơ ngác” (bên “hồ thu xanh biếc”) thì dường như không còn chi khác nữa! Từ Sài Gòn, khi tôi được bố mẹ “bế” lên thành phố vắng vẻ và mù sương này (vào khoảng giữa thập niên 1950) thì Đà Lạt đã bị đô thị hóa ít nhiều. Nơi đây không còn những “bầy nai ngơ ngác” nữa. Voi, cọp, heo rừng, beo, báo, gấu, khỉ, vượn, nhím, mển, gà rừng, công, trĩ, hươu, nai, trăn, rắn, sóc, cáo, chồn… cũng đều đã biệt tăm. Người Thượng cũng ở cách xa, nơi miền sơn cước.
Vi hiến có nghĩa là “vi phạm” hay đi ngược lại những gì Hiến Pháp (HP) quy định. HP không có gì là cao siêu hay quá bí ẩn. Hiến Pháp trong bản chất chỉ là một bộ luật. Sự khác biệt chỉ là: HP là một bộ luật nền tảng hay nôm na là “luật mẹ”. Không những không cá nhân hay hữu thể pháp lý nào trong xã hội, kể cả hành pháp (tức chính phủ) được quyền vi phạm HP, mà không một luật pháp nào của lập pháp (tức quốc hội) được quyền vi phạm HP cả...
Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ tiếp tục đi theo đường mòn Chủ nghĩa đã lu mờ trong thưc tế và thất bại trong hành động tại Đại hội đảng kỳ 14 vào tháng 1 năm 2026. Khẳng định này của ông Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư đảng là bằng chứng cho tính chai lỳ, chậm tiến và lạc hậu, không phải của riêng ông mà toàn đảng...
Thứ Bảy 24/2/2024 đánh dấu hai năm kể từ khi Nga phát động cuộc chiến tranh xâm lược toàn diện nước Ukraine. Cuộc xung đột đang lâm vào tình trạng bế tắc và ngày càng tàn khốc. Nhân dịp này ông Nick Schifrin, một phát thanh viên của kênh truyền hình PBS, đã tổ chức một buổi thảo luận bàn tròn về hiện tình của cuộc chiến, nó có thể đi đến đâu và chính sách của Hoa Kỳ đối với Ukraine sẽ ra sao. Hiện diện trong buổi thảo luận có các ông Michael Kofman, John Mearsheimer và bà Rebeccah Heinrichs...
Đôi lời từ tác giả: “Sẽ có nhiều người không thích bài viết này. Họ sẽ cảm thấy bị công kích và rằng thật bất công. Phản ứng càng mạnh mẽ càng cho thấy nỗi sợ hãi về chủng tộc đã cắm rễ sâu vào nền chính trị Hoa Kỳ, và sẽ tồn tại mãi.” Tầm quan trọng của vấn đề chủng tộc trong nền chính trị của chúng ta được thể hiện rõ ràng qua chiến dịch tranh cử tổng thống hiện tại. Khẩu hiệu (slogan) đình đám nhất là từ chiến dịch tranh cử của Donald Trump: “MAGA” – Make America Great Again (Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại). Ý của slogan này là Hoa Kỳ đã từng rất vĩ đại, nhưng đã và đang đánh mất hào quang của mình.
Sau 11 năm chống Tham nhũng (2013-2024) nhưng Tham nhũng cứ trơ ra cười vào mũi Đảng là tại sao?
Thời gian gần đây, những người thương vay khóc mướn ở Việt Nam thường đem vấn đề Chủ nghĩa Xã hội và đảng có quyền một mình lãnh đạo ra hù họa dư luận. Tuy nhiên, càng vênh váo và cù nhầy bao nhiêu lại càng lâm vào thế bí. Những bài viết không trả lời được câu hỏi: Ai đã trao quyền lãnh đạo cho Đảng, và tại sao Đảng sợ Dân chủ đến thế?
Cận Tết năm Thìn, Marianne Brown (Guardian Weekly) có bài “Vietnam’s parents want a dragon son.” Trời! Tưởng gì, chớ cả Tầu lẫn Ta ai mà không muốn có con trai tuổi Rồng. Nhâm Thìn, tất nhiên, lại càng bảnh dữ nữa. Nam nhâm nữ quí thì sang mà lị. Theo tuviso.com: “Tuổi Nhâm Thìn có nhiều hy vọng tốt đẹp về vấn đề tình duyên và tương lai về cuộc sống, có phần tốt đẹp về tình cảm và tài lộc, vào trung vận và hậu vận thì được nhiều tốt đẹp về hạnh phúc, công danh có phần lên cao.”
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.