Hôm nay,  

Giải Trừ Lạm Phát Tại Việt Nam

21/04/201100:00:00(Xem: 10418)

Giải Trừ Lạm Phát Tại Việt Nam

Nguyễn Xuân Nghĩa & Vũ Hoàng RFA

...chính nỗ lực giải trừ lạm phát một cách lụp chụp còn gây thêm vấn đề...

Sau khi gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới và đạt tốc độ tăng trưởng ngoạn mục đến 8,5% vào năm 2007, Việt Nam cũng bị suy trầm cùng toàn cầu trong hai năm 2008-2009 mà vẫn giữ tốc độ tăng trưởng cao là 6,3% rồi 5,3% vào hai năm đó. Khi kinh tế thế giới hồi phục từ năm 2010, Việt Nam đạt mức tăng trưởng là 6,8%, tức là còn lớn hơn dự báo là 6,5%. Nhưng cũng từ đấy, nhiều dấu hiệu bất ổn đã xuất hiện và đưa đến hỗn loạn, thậm chí khủng hoảng từ đầu năm nay, với lạm phát đang là mối quan tâm của mọi người. Diễn đàn Kinh tế sẽ tìm hiểu về các biện pháp giảm trừ lạm phát được áp dụng từ đầu năm nay. Xin quý thính giả theo dõi phần trao đổi cùng nhà tư vấn kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa do Vũ Hoàng thực hiện sau đây.
Vũ Hoàng: Xin kính chào ông Nguyễn Xuân Nghĩa. Thưa ông, trong chương trình phát thanh ngày sáu tháng Tư cách đây hai tuần, ông có giải thích nguyên ủy của vụ khủng hoảng ngày nay tại Việt Nam là sự lạc quan thiếu cơ sở sau khi gia nhập Tổ thức Thương mại Thế giới từ năm 2007. Chương trình kỳ này xin đề nghị ông phân tích về bối cảnh của vấn đề, về các biện pháp ứng phó của chính quyền, đặc biệt với đà vật giá gia tăng, trong đó có cả quyết định cấm kinh doanh vàng miếng và trao đổi bằng đồng đô la. Ông nghĩ sao"
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Như mọi khi, tôi sẽ xin trình bày về bối cảnh trước và sau đó sẽ phân tích vấn đề trước khi có thể nói đến những giải pháp hay đề nghị.
- Trên diễn đàn này, qua các năm 2004 đến 2006, bản thân tôi là thiểu số đã liên tục dự báo rằng Việt Nam chưa thể gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO năm đó. Và còn nói thêm rằng đấy là điều may vì cho Việt Nam thêm cơ hội tìm hiểu về các thách đố mới và để chuẩn bị những biện pháp cải cách. Sau khi Việt Nam chính thức gia nhập WTO và đạt quy chế mậu dịch bình thường và vĩnh viễn với Hoa Kỳ từ năm 2007, cũng diễn đàn này đã nói đến một nhu cầu mà khi đó tôi gọi là "Cách mạng về Thông tin", để cả chính quyền lẫn quốc dân cùng hiểu thấu về những quy luật sinh hoạt kinh tế quá mới cho Việt Nam.
- Chuyện thông tin ấy không xảy ra vì mọi người đều hồ hởi với tương lai trước mặt. Chính quyền còn coi đó là công lao thành tích của mình. Nghĩ lại thì không ai dụ dỗ hay lường gạt mình bơi ra biển lớn để bắt cá to, đấy là yêu cầu tự nhiên của quốc gia mà thôi. Nhưng khi đã ra tới biển xanh để tranh hùng với thiên hạ thì cũng phải biết rằng mình sẽ gặp sóng lớn và phải thay đổi cách suy nghĩ và hành xử. Hậu quả của hiện tượng hồ hởi lạc quan mà thiếu chuẩn bị là đánh giá sai chuyện "được- mất" trong tiến trình hội nhập ban đầu.
- Cụ thể là đòi vươn vai phóng ra biển lớn với lượng tín dụng dồi dào, lại có thêm tư bản ào ạt tràn tới như gió thuận buồm thổi từ sau lưng. Chính là lượng tư bản quá lớn lao đó đã đẩy một con thuyền thật ra còn mong manh vào cơn bão tố khi kinh tế thế giới bị suy trầm toàn cầu vào các năm 2008-2009. Vì vậy, từ năm 2010, Việt Nam bắt đầu gặp khó khăn mà lãnh đạo xứ này lại chưa ý thức được.
- Một cách thực tiễn thì sau giai đoạn tư bản dư dôi tràn ngập, Việt Nam phải qua thời kỳ sút giảm thanh khoản, tiền mặt, và có tốc độ tăng trưởng thấp hơn, nhưng cũng nhân đó mà rà soát lại kinh nghiệm và kiện toàn lại những yếu kém ngay trong cơ cấu của mình. Không may là lãnh đạo chẳng hiểu như vậy nên lại càng bơm tiền kích thích kinh tế để đạt mức tăng trưởng cao, như cố gắng kéo một cỗ xe nát tiến lên cho nhanh hơn, với hậu quả là gây ra khủng hoảng ngày nay. Một biểu hiện của khủng hoảng là lạm phát, nhưng không là vấn đề duy nhất, khó khăn duy nhất. Không những thế, chính nỗ lực giải trừ lạm phát một cách lụp chụp còn gây thêm vấn đề.
Vũ Hoàng: Ông đặt lại bối cảnh của cả hồ sơ kinh tế này trong một viễn ảnh dài và cho rằng lạm phát không là vấn đề duy nhất. Như vậy, kinh tế Việt Nam còn có nhiều vấn đề khác nữa. Thưa ông, đó là những vấn đề gì" Nguyễn Xuân Nghĩa: - Chuyện đầu tiên là mối nguy từ nhận thức sai lạc của chính lãnh đạo.
- Họ chỉ nhìn thấy một yêu cầu là tăng trưởng cao với cái giá phải trả, hoặc rủi ro có thể gặp, là nạn lạm phát. Bài toán kinh tế không đơn giản chỉ có hai vế là sản xuất và vật giá. Vì sai lầm đó, họ cứ tìm cách giải trừ lạm phát mà vẫn đạt tăng trưởng cao với hậu quả là càng gây hốt hoảng. Và vì chính quyền hốt hoảng nên mới dẫn có loại biện pháp kỳ lạ như ta đang thấy. Nhưng song song, ta còn thấy ra nhiều vấn đề khác trong trung hạn và dài hạn. Ở đây tôi chỉ nói về ngắn hạn:
- Thứ nhất là trong quan hệ trao đổi với bên ngoài, kinh tế Việt Nam bị nhập siêu nặng vì nhập nhiều hơn xuất khẩu do yếu kém trong cơ cấu sản xuất và vì chiến lược phát triển là chỉ biết làm gia công cho thiên hạ. Chuyện khó tin là nhiều người còn nhập nông sản từ xứ khác, như từ châu Phi, đem về bao gói và bán ra ngoài như "Sản phẩm của Việt Nam" mà chính quyền thì cứ coi đó là thành tích xuất khẩu, cho đến khi giá cả đảo chiều là ngày nay, làm nhiều cơ sở bị đọng vốn và không thể thanh toán món nợ bằng đô la. Vấn đề ấy gây sức ép trên tỷ giá đồng bạc và kéo dài quá lâu nên bào mỏng dự trữ ngoại tệ của quốc gia, nay chỉ còn đủ cho gần hai tháng nhập cảng và gây khan hiếm ngoại tệ, chủ yếu là đô la Mỹ.
- Vì vậy mà dù Mỹ kim sụt giá trên toàn cầu, nó vẫn lên giá tại Việt Nam và chính quyền phải phá giá đồng bạc, mà càng phá giá thì càng gây thêm sức ép trên vật giá. Việt Nam rơi vào con xoáy tai hại của hai động lực song hành là ngoại hối và lạm phát, kịch bản rất nguy.
Vũ Hoàng: Chúng tôi nhớ là nhiều chuyên gia cũng cảnh báo rằng việc phá giá đồng bạc có thể là cần thiết, nhưng gây hiệu ứng phụ là làm hàng nhập khẩu lên giá và nếu lạm phát kéo dài thì hai động lực ấy sẽ nuôi dưỡng lẫn nhau và đánh sụt luôn mức sản xuất, điều ấy có đúng không"

Nguyễn Xuân Nghĩa: - Đấy là giả thuyết đáng ngại nhất trong một hai năm tới. Trong khi đó, và đây là loại vấn đề thứ ba, vì cơ chế kinh tế chính trị gọi là theo "định hướng xã hội chủ nghĩa", Việt Nam vẫn nuôi dưỡng một "khu vực kinh tế chủ lực" là doanh nghiệp nhà nước. Thực tế thì đây là các trung tâm phúc lợi bất chính - hang ổ của tham nhũng - và gây phao phí tài nguyên quốc gia. Chế độ kinh tế chính trị đó dẫn tới lạm dụng tư bản, thậm chí tẩu tán tư bản và gây thêm khó khăn về ngoại hối vì nhiều đại gia đã vét đô la chạy ra ngoài mà dân chúng không biết. Và nó càng gây bội chi ngân sách quá cao vì các chương trình đầu tư đầy hoang phí của khu vực công cho doanh nghiệp nhà nước. Kết quả là công quỹ hết tiền và mất luôn khả năng can thiệp vào thị trường để trợ giá hoặc cứu giúp dân nghèo đang bị điêu đứng vì vật giá gia tăng.
- Sau cùng mà không là duy nhất, khi tư bản còn dư dôi đổ vào, nó chảy từ đầu tư qua đầu cơ, chủ yếu vào hai khu vực chứng khoán và bất động sản, là nơi tung hoành của một thiểu số ở thành thị với bong bóng ảo và hình ảnh của phồn vinh giả tạo với một số đại gia vẫn mua xắm xa xỉ phẩm đắt tiền. Họ coi bất công xã hội là không có và dân chủ là không cần! Khi vật giá hoành hành thì người nghèo khổ nhất và thành phần có đồng lương cố định bắt đầu bị thiệt hại nhất, chứ thiểu số có tiền ở thành phố thì vẫn bình chân như vại và nghĩ rằng họ khôn ngoan hơn cả.
- Nhưng chuyện ấy không còn nữa vì đám người gọi là "nhà giàu" này cũng bắt đầu hốt hoảng và càng gây thêm hốt hoảng cho thị trường vì những tính toán luồn lách của họ để tìm ra các kênh đầu tư béo bở khác, kể cả tẩu tán và gọi là đầu tư ra ngoài. Hậu quả sau này là nhiều ngân hàng sẽ bị suy sụp và mất nợ, thậm chí vỡ nợ. Do đó vấn đề không chỉ là nạn lạm phát mà thôi!
Vũ Hoàng: Chúng ta trở lại việc giải trừ lạm phát. Ông giải thích thế nào về các biện pháp này"
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Tôi phải trình bày lại bối cảnh để ta hiểu ra vì sao giải trừ lạm phát chỉ là một phần của cả một kế hoạch chung, là điều mà nhiều người chưa thấy!
- Ta còn nhớ là ngay sau Tết Nguyên đán, giới chức Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát biểu rằng sau khi dân chúng ăn một cái Tết lớn nhất lịch sử thì ngân hàng phải thu hồi lại nguồn tiền đã bơm vào kinh tế! Nếu nhớ lại thì mình hiểu ra là đầu năm dương lịch 2011, Việt Nam có Đại hội đảng của Khoá 11 và do yêu cầu chính trị, Ngân hàng Trung ương vẫn phải bơm tiền cho dân ăn Tết mà bất kể tới hậu quả lạm phát! Sau đó là các quyết định lụp chụp, không có phối hợp, thiếu đồng bộ và thậm chí mâu thuẫn nên mới gây ra hốt hoảng.
- Trước hết là việc Ngân hàng Trung ương phá giá đồng bạc, lần thứ tư trong vòng 14 tháng, ban hành ngay sau Tết Nguyên đán vào ngày 11 tháng Hai mà chẳng có giải thích gì thêm về yêu cầu giảm trừ khồi tiền tệ lưu hành để ngăn ngừa lạm phát sẽ làm cho dân nghèo bị khổ nhất. Thiếu "Cách mạng Thông tin" là như vậy! Sau đó gần một tuần, ngày 17 tháng Hai mới là các biện pháp xiết chặt tín dụng ngân hàng, nhồi theo là việc nâng lãi suất vào ngày 22 tháng Hai và lời thông báo một tuần sau, mùng một tháng Ba, là các ngân hàng sẽ không được tài trợ cho loại dự án phi sản xuất, nếu không là sẽ phải nâng mức dự trữ pháp định gấp đôi. Ở giữa một loạt biện pháp dồn dập trong vòng ba tuần là Nghị quyết 11 được Chính phủ ban hành hôm 24 tháng Hai với sáu gói chính sách đồng loạt mà Ngân hàng Nhà nước, bộ Tài chính, bộ Công thương nghiệp, bộ Kế hoạch và Đầu tư cùng bộ Thông tin phải áp dụng và giải thích! Trong đó có quyết định hợp lý mà không hợp thời là chấm dứt trợ giá xăng dầu và gây thêm đảo điên cho thị trường. Người dân và thị trường phải kết luận - mà không sai - là Chính quyền hốt hoảng đối phó chứ không suy nghĩ chín chắn về nguyên nhân và hậu quả của từng loại vấn đề mà có một chiến lược tổng thể về quản lý vĩ mô.
Vũ Hoàng: Và thưa ông, lồng trong đó là quyết định về việc kinh doanh vàng miếng và đô la, với lý do là giải trừ lạm phát. Có phải vì vậy mà người dân mới hoang mang và ngờ vực không"
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Người dân ngờ vực là đúng. Việc dân chúng sợ đồng bạc mất giá mà tìm cách tồn trữ tài sản dưới dạng vàng và đô la chỉ là hậu quả chính đáng chứ không là nguyên nhân của lạm phát. Khi ra lệnh cấm đoán như vậy, chính quyền chỉ chữa bệnh ở ngọn, ở triệu chứng, chứ không giải quyết ở gốc. Vì vậy, không ai tin là biện pháp này sẽ công hiệu để ổn định vật giá. Nhưng thực tế thì còn nguy hơn vậy vì người dân còn kết luận rằng đây chỉ là biện pháp ngầm giúp các đại gia hay doanh nghiệp nhà nước mà thôi vì thành phần này vẫn thừa khả năng luồn lách luật lệ. Tôi xin được giải thích thêm chuyện này, rằng yếu tố quan trọng trong một nền kinh tế thị trường là quyền chọn lựa.
- Trong mọi hoàn cảnh, mọi tác nhân kinh tế từ giàu có đến nghèo khổ nhất đều tự nhiên và tất yếu chọn lựa giải pháp nào có lợi nhất hoặc ít hại nhất. Trong sự chọn lựa đó có cách sản xuất cái gì thì tối ưu về doanh lợi và cách tồn trữ tài sản hay hàng hóa nào an toàn nhất. Việc kiểm soát hay cấm đoán vẫn không thể ngăn chặn được sự chọn lựa rất bình thường và phải nói là chính đáng này. Thí dụ như nếu người dân tin vào trị giá của đồng nội tệ, đồng bạc Việt Nam, thì chẳng cấm họ cũng đổi đô la là tiền Việt và tìm lãi suất cao hơn của ngân hàng tại Việt Nam!
- Khi ban hành chính sách kinh tế, thì chính quyền phải hiểu ra quy luật đó mà thi hành đồng bộ với giải thích rõ ràng và thống nhất. Chỉ như vậy thì mới giúp mọi người có cơ sở cân nhắc lợi hại của từng chọn lựa mà không gây thêm vấn đề. Vì chỉ nhìn thấy một góc của vấn đề và lại có quá nhiều quyền lực trong tay mà khỏi phải giải trình hay bị trách nhiệm, chính quyền Việt Nam áp dụng giải pháp hành chính dễ dãi mà nguy hiểm là cấm đoán. Việc cấm đoán ấy không hạn chế được khả năng xoay trở của những người có quan hệ với chế độ và gây thêm bất công. Nó còn làm cho quy luật thị trường thêm lệch lạc, mất luôn những tín hiệu cần thiết về lời lỗ và nếu nhất thời có ổn định được tỷ giá của đồng bạc thì vẫn không ngăn ngừa được lạm phát. Đó là ta chưa nói đến những hiệu ứng ngoại nhập từ thị trường thế giới nay mai sẽ còn dội vào Việt Nam.
Vũ Hoàng: Xin trân trọng cảm tạ ông Nghĩa và xin hẹn ông một kỳ tới, chúng ta sẽ trao đổi về những gì có thể xảy ra sau này.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
“Ý thức xã hội mới Việt Nam “là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, những tình cảm, tâm trạng, truyền thống tốt đẹp, v.v. của cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ xã hội mới”. Nói như thế là cuồng tín, vọng ngoại và phản bội ước vọng đi lên của dân tộc...
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
Hí viện Crocus City Hall, cách Kremlin 20 km, hôm 22 tháng O3/2024, đang có buổi trình diển nhạc rock, bị tấn công bằng súng và bom làm chết 143 người tham dự và nhiều người bị thương cho thấy hệ thống an ninh của Poutine bất lực. Trước khi khủng bố xảy ra, tình báo Mỹ đã thông báo nhưng Poutine không tin, trái lại, còn cho là Mỹ kiếm chuyện khiêu khích...
Khi Việt Nam nỗ lực thích ứng với môi trường quốc tế ngày càng cạnh tranh hơn, giới lãnh đạo đất nước đã tự hào về “chính sách ngoại cây giao tre” đa chiều của mình. Được Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), thúc đẩy từ giữa thập niên 2010, ý tưởng là bằng cách cân bằng mối quan hệ của Việt Nam với các cường quốc – không đứng về bên nào, tự chủ và thể hiện sự linh hoạt – nó có thể duy trì sự trung gian và lợi ích của mình, đồng thời tận dụng các cơ hội kinh tế do tình trạng cạnh tranh của các đại cường tạo ra
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.