Hôm nay,  

Nạn Thất Nghiệp Tới Đâu Rồi"

15/02/201100:00:00(Xem: 15058)
Nạn Thất Nghiệp Tới Đâu Rồi"
Vũ Linh

...muốn bán nhà ở Cali, chạy qua Texas kiếm việc cũng không được...
Thống kê Tháng Giêng vừa qua cho thấy tình hình công ăn việc làm vẫn không có tiến triển tốt đẹp gì cho lắm. Trong tháng, số người có việc gia tăng lên được 36.000. Dĩ nhiên là tốt hơn thống kê cho thấy hàng chục ngàn người mất việc. Nhưng thực tế là con số này không thấm thiá vào đâu so với nhu cầu giảm tỷ lệ thất nghiệp.
Chỉ tính theo đà tăng trưởng của dân số Mỹ nói chung, mỗi tháng cần phải có tối thiểu 150.000 người có việc làm mới thì mới duy trì được tình trạng thất nghiệp nguyên mức, hay là gần 9,8% hiện nay. Ít hơn thì dĩ nhiên tỷ lệ thất nghiệp sẽ tiếp tục gia tăng.
Nói cách khác, con số người mới có việc trong Tháng Giêng chỉ mới bằng một phần tư nhu cầu để duy trì tình trạng “vũ như cẩn”, vẫn như cũ. Tức là tỷ lệ thất nghiệp trong Tháng Giêng đã không dậm chân tại chỗ, mà vẫn tiếp tục leo thang.
Thống kê chính thức cho thấy tỷ lệ thất nghiệp trong Tháng Giêng đã giảm từ 9,4% hồi Tháng Chạp xuống 9,0%. Tuy nhiên theo các chuyên gia, sự giảm sút này không phải là do nhiều người có việc làm hơn, mà là do nhiều người chán nản không ghi tên kiếm việc nữa thôi. Những người này theo cách tính thống kê của Mỹ đã không bị xếp hạng vào thành phần thất nghiệp. Một cách tính lạ lùng!
Các chuyên gia ước tính nội trong Tháng Giêng, đã có hơn 300.000 người bỏ cuộc. Nếu kể cả những người thất nghiệp nhưng không đi kiếm việc nữa thì tỷ lệ thất nghiệp thực thụ ở Mỹ hiện nay là hơn 16%, tức là gần 14 triệu người, trong đó có khoảng sáu triệu rưởi người đã tìm không ra việc làm từ hơn 6 tháng. Ở cái xứ Mỹ này, chúng ta đều biết thất nghiệp trên sáu tháng coi như không còn hy vọng tìm ra việc tương đương hay cùng ngành với nghề cũ nữa. Chỉ còn nước thất nghiệp luôn hay đổi nghề hay chấp nhận qua mức lương thấp hơn nhiều.
Con số 36.000 việc mới này thấp hơn dự đoán của các chuyên gia. Trước đó, các chuyên gia kinh tế ước tính sẽ có thêm 145.000 việc mới trong tháng. Thực tế là khu vực tư tạo ra được 50.000 việc làm, nhưng khu vực công lại sa thải thêm 14.000 người.
Trong Tháng Giêng, mức lương trung bình tính theo đầu người gia tăng chút đỉnh. Không phải các công ty có lời nhiều nên tăng lương nhân viên, mà chỉ phản ánh chuyện các công ty bắt nhân công đang làm phải làm nhiều giờ hơn, thay vì đi thuê nhân công mới, hay thu nhận lại nhân công mới bị sa thải.
Không cần nhìn kỹ chi tiết thống kê, ta cũng biết phần lớn những người tìm không ra việc là những người không có tay nghề chuyên môn, hay không có bằng cấp cao học, và những người cở tuổi gần về hưu, khoảng tuổi 50. Thống kê Mỹ không có nghiên cứu tình hình dân tỵ nạn chúng ta nói riêng, nhưng hiển nhiên là đại đa số dân tỵ nạn thế hệ một đang hết sức chật vật, vừa lớn tuổi lại vừa không có bằng cấp Mỹ. Bù lại, tin vui hơn là dân tỵ nạn thế hệ thứ hai phần lớn là có học, cộng thêm vào óc thông minh và tính siêng năng, nên cũng tương đối không bị khó khăn như lớp cha anh.
Thống kê cho thấy các ngành có nhu cầu thuê người nhiều nhất hiện nay là công nghệ thông tin (information technology) và kỹ sư, là những ngành mà giới trẻ Việt Nam theo đuổi khá nhiều. Cũng là một tin tốt cho cộng đồng chúng ta.
Ngành bị mất việc nhiều nhất trong năm qua dĩ nhiên là xây cất, với ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng gia cư vẫn còn. Người ta ước đoán phải ít ra là hai năm nữa thì ngành xây cất mới có cơ phục hồi được.
Tình trạng thất nghiệp dai dẳng có vẻ như tréo cẳng ngỗng với các tin tức về phục hồi kinh tế.
Cách đây cả nửa năm, TT Obama đã quảng bá là khủng hoảng kinh tế đã được ngăn chặn lại từ giữa năm 2009, và từ đó đến nay, có thể nói là “kinh tế đã phục hồi”.
Các chỉ số kinh tế đúng ra đã cho thấy kinh tế đã thực sự phục hồi.
Theo tin tức báo chí, tiền lời của các đại công ty điện toán như IBM, Xerox,… đều đang đạt kỷ lục. Sinh hoạt trong các ngành chế biến đang ở mức cao nhất từ 2004. Một chỉ dấu quan trọng nữa là các chỉ số trên thị trường chứng khoán Dow Jones và Nasdaq, đang lên đến mức cao nhất từ ba năm nay, tức là đã trở về mức của thời trước khủng hoảng tài chánh cuối năm 2008.
Điều đáng nói là mặc dù kinh tế đã hồi phục, nhưng việc làm vẫn không thấy đâu.
Hơn hai năm sau khi TT Obama tung ra cả ngàn tỷ đô kích cầu kinh tế để gọi là tạo công ăn việc làm, tỷ lệ thất nghiệp vẫn hầu như đứng nguyên tại chỗ ở mức gần 10%. TT Obama và truyền thông cấp tiến loay hoay tìm câu giải thích cho sự thất bại, chỉ biết ca bài… đổ thừa cho Bush. Nếu lỗi tại Bush, tại sao TT Obama lại thay thế nguyên ê-kíp kinh tế mà chính mình đã bổ nhiệm"
Trong khi đó, khối bảo thủ quả quyết chương trình kích cầu kinh tế của TT Obama ngay từ đầu đã không phải là một chính sách có mục đích tạo công ăn việc làm. Chương trình kích cầu kinh tế nhìn chung không có tác dụng nhiều trong ngắn hạn, tất nhiên không thể giải quyết nạn thất nghiệp ngay bây giờ. Vì chương trình đó thực sự ra là một chương trình dài hạn nhằm mục đích tái phân phối lợi tức trong xã hội Mỹ, có thể nói là bị che lấp dưới chiêu bài tạo công ăn việc làm.
Thực tế như vậy thì dĩ nhiên những chương trình kích cầu kinh tế đã chẳng kích được gì và nạn thất nghiệp vẫn còn nguyên.
Đại đa số người dân Mỹ đã nhìn rõ sự thật và đi bỏ phiếu Tháng Mười Một vừa qua. Bây giờ thì dường như TT Obama nghe được tiếng nói của dân và đang có khuynh hướng chú tâm nhiều hơn vào vấn đề thất nghiệp và thật sự tìm cách giải quyết.
Nhưng có ý định là một chuyện, đối phó với thực tế là chuyện khác. Thực tế có rất nhiều vấn đề.

Đầu tiên là nhiều ngành công kỹ nghệ Mỹ càng ngày càng cơ giới hóa, điện toán hóa, do đó càng ngày càng ít nhu cầu nhân sự. Cuộc khủng hoảng hai năm trước đã cho họ cơ hội thanh lọc thêm nhân sự, sa thải thêm người, và chú trọng hơn vào computer. Mặc dù sa thải người, nhưng cuối cùng thì các công ty không những không thu rút nhỏ lại, mà lại vẫn tiếp tục bành trướng, mỗi ngày mỗi lời nhiều hơn. Bây giờ không có lý do gì họ lại đổi sách lược, trở về thuê các nhân công cũ.
Cũng trong thời gian gần đây, một số lớn các đại công ty cũng đã chuyển cơ sở họ ra nước ngoài, thi hành chính sách gia công cho các nước chậm tiến lương thấp như Việt Nam, Bangladesh,…. Từ đó, họ càng ngày bành trướng doanh thu, càng lời trong khi càng dùng ít nhân công Mỹ. Phần lớn doanh thu và tiền lời của các đại gia là tiền từ các cơ sở ở ngoài nước Mỹ. Họ chẳng có lý do gì đóng cửa các cơ sở ở các nước ngoài để mang các hãng xưởng của họ về Mỹ, mướn thêm nhân công Mỹ. Nhất là trong bối cảnh một chính quyền Obama suốt ngày đòi tăng thuế các “đại gia”.
Các chuyên gia đều có nhận định chung là chính quyền Obama là chính quyền ít thân thiện với giới kinh doanh nhất trong lịch sử cận đại Mỹ. Tuy TT Obama đưa ra vài thông điệp mới để chiêu dụ lại giới kinh doanh, chẳng hạn như bổ nhiệm tài phiệt Daley làm Chánh Văn Phòng, đi gặp mặt Phòng Thương Mại Mỹ, ca tụng chế độ kinh tế thị trường Mỹ, v.v…, nhưng dù sao thì cũng vẫn còn là… thông điệp, chưa có gì cụ thể. Trái lại, trong diễn văn mới đây của TT Obama trước Phòng Thương Mại, ông còn hô hào các doanh gia nên tự hỏi mình có thể làm gì được cho nước Mỹ (“ask yourself what you can do for America”, bắt chước theo thông điệp nổi tiếng của TT Kennedy ngày xưa). Nói nôm na ra là ông đang trách các doanh gia Mỹ đã không chịu làm gì để tạo công ăn việc làm cho dân Mỹ, hoặc giả đang cố kích thích lòng yêu nước của các doanh gia Mỹ. Làm như thể các doanh gia tài phiệt đều có thể vì lòng yêu nước, mang cơ sở ở nước ngoài trở về Mỹ để tạo công ăn việc làm cho dân Mỹ, đóng thuế nhiều hơn cho TT Obama, và cũng giúp ông đắc cử lại hai năm nữa. Không biết TT Obama có biết ông đã đòi hỏi quá nhiều không"
Một vấn đề nữa là việc di chuyển của dân Mỹ đi kiếm việc làm. Trong quá khứ, dân Mỹ nổi tiếng là loại dân phiêu bạt giang hồ, sẵn sàng bán nhà đổi tỉnh, đổi tiểu bang để đi tìm việc làm. Do đó, vấn đề thất nghiệp cao thường không kéo dài lâu, khác với tình trạng hiện tại. Bây giờ thì sự di chuyển của lực lượng lao động Mỹ không còn dễ dàng như trước. Không phải nói “Cali không có việc làm, bán nhà đi Texas” là được ngay. Vì cùng với khủng hoảng kinh tế là cuộc khủng khoảng gia cư lớn nhất lịch sử Mỹ. Bây giờ thiên hạ có muốn bán nhà ở Cali, chạy qua Texas kiếm việc làm cũng không được, vì nhà Cali không bán được dễ dàng nữa.
Một khúc mắc lớn nữa là chính sách vung tay quá trán, tiêu xài như nước trong hai năm đầu của TT Obama. Những chi tiêu quá mức đó đã tạo ra những lỗ thâm thủng ngân sách vĩ đại chưa từng thấy trong lịch sử Mỹ. Dưới thời TT Roosevelt thập niên ba mươi, cuộc khủng hoảng kinh tế và nạn thất nghiệp đã được Nhà Nước giải quyết bằng cách mau chóng tung ra hàng loạt chương trình vĩ đại như xây đường xá, đập nước, đường xe lửa… để tạo công ăn việc làm. Ngày nay, trước những thâm thủng ngân sách đã quá lớn, TT Obama không thể nào lại tung thêm tiền tài trợ các dự án vĩ đại kiểu Roosevelt nữa. Cho dù có muốn làm liều nữa thì ông cũng đã bị dân Mỹ khóa tay khi họ trao đa số kiểm soát Hạ Viện cho đảng Cộng Hòa. Thông điệp của dân Mỹ: tiêu xài như vậy đã quá nhiều rồi tổng thống ơi! Bây giờ không có tiền thì cũng khó tạo công ăn việc làm để giải quyết nạn thất nghiệp.
Nạn thất nghiệp cao hiện nay không có triệu chứng giảm sút gì trong tương lai gần. Nhiều người lạc quan nhất đã ước tính phải mất ít ra là 5 năm nữa, may ra tỷ lệ thất nghiệp mới xuống lại mức của thời TT Bush. Những người bi quan thì ước đoán phải cần… 10 đến 15 năm. Đây là một tin không vui tý nào cho TT Obama. Hai năm nữa ông phải trực diện lại với dân Mỹ. Nếu tỷ lệ thất nghiệp vẫn lửng lơ ở mức 9%-10% hiện nay thì sẽ khó cho ông giải thích với dân Mỹ. Bốn năm nữa mà ông vẫn… đổ thừa cho Bush thì sẽ không ổn.
Dân Mỹ là dân không có kiên nhẫn, cũng không muốn nghe những lời phân trần. Họ chỉ muốn thấy kết quả cụ thể: làm được việc hay không làm được việc. Cuối tháng họ có tiền lương hay không, có bánh mì trên bàn ăn hay không. Không cần giải thích, mà cũng chẳng biết tình cảm là gì.
Phải chi TT Obama đặt ưu tiên thực sự cho việc giải quyết nạn thất nghiệp ngay từ đầu, ngay từ trong chương trình kích cầu kinh tế năm 2009, thì có lẽ tình trạng đã không khó khăn như ngày nay, lại có thể cứu vãn được nhanh chóng, như TT Bush đã làm trong cuộc khủng hoảng dot.com năm 2000. Chỉ tiếc là giải quyết nạn thất nghiệp chưa hề là ưu tư của TT Obama trong suốt hai năm đầu của ông, cho đến cuộc bầu cử giữa mùa Tháng Mười Một vừa qua. Quá muộn.
Điều buồn cười là sau khi nắm đa số tại Hạ Viện trong 4 năm (từ 2006) mà chỉ thấy tỷ lệ thất nghiệp leo thang vùn vụt, đảng Dân Chủ bây giờ tung ra chiến dịch hạch hỏi đảng Cộng Hòa “việc làm đâu"” ngay sau khi Cộng Hòa vừa chiếm được đa số chưa tới một tháng rưỡi. Còn treo bảng ở Hạ Viện đếm ngày Cộng Hòa nắm đa số mà không giải quyết được nạn thất nghiệp: 40 ngày! Ai dám nói chính khách đều không còn là trẻ con nữa" Hay họ coi chúng ta là con nít" (13-2-11)
Quý độc giả có thể liên lạc với tác giả để góp ý qua email: Vulinh11@gmail.com. Bài của tác giả được đăng mỗi Thứ Ba trên Việt Báo.

Ý kiến bạn đọc
15/02/201123:47:08
Khách
Bài nhận định khô khan - chẳng có gì hấp dẫn.
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Một quan điểm lạc quan đang dấy lên trong hàng ngũ Lãnh đạo đảng CSVN khi bước vào năm 2024, nhưng thực tế tiềm ẩn những khó khăn chưa lường trước được...
Nếu Donald Trump giành lại được Nhà Trắng vào tháng 11, năm nay có thể đánh dấu một bước ngoặt đối với quyền lực của Mỹ. Cuối cùng, nỗi sợ hãi về tình trạng suy tàn đã khiến cho người Mỹ bận tâm kể từ thời thuộc địa sẽ được biện minh. Hầu hết người Mỹ tin rằng, Hoa Kỳ trong tình trạng suy tàn, Donald Trump tuyên bố rằng ông có thể “Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại”. Nhưng tiền đề của Trump đơn giản là sai, và các biện pháp trị liệu được ông đề xuất đặt ra mối đe dọa lớn nhất đối với nước Mỹ.
Đảng CSVN hay nói “Trí thức là “nguyên khí của quốc gia”, làm hưng thịnh đất nước, rạng rỡ dân tộc*; “Trí thức là vốn liếng quý báu của Dân tộc”; hay “Thanh niên là rường cột của nước nhà” , nhưng tại sao nhiều người vẫn ngại đứng vào hàng ngũ đảng? Lý do vì đảng chỉ muốn gom Trí thức và Thanh niên “vào chung một rọ để nắm tóc”...
Tây Bắc hay Tây Nguyên thì cũng chừng đó vấn đề thôi: đất đai, tôn giáo, chủng tộc… Cả ba đều bị nhũng nhiễu, lũng đoạn tới cùng, và bị áp chế dã man tàn bạo. Ở đâu giới quan chức cũng đều được dung dưỡng, bao che để tiếp tục lộng quyền (thay vì xét sử) nên bi kịch của Tây Nguyên (nói riêng) và Cao Nguyên (nói chung) e sẽ còn dài, nếu chế độ toàn trị hiện hành vẫn còn tồn tại...
Bữa rồi, nhà thơ Inra Sara tâm sự: “Non 30 năm sống đất Sài Gòn, tôi gặp vô số người được cho là thành công, thuộc nhiều ngành nghề, đủ lứa tuổi, thành phần. Lạ, nhìn sâu vào mắt họ, cứ ẩn hiện sự bất an, lo âu.” “Bất an” có lẽ không chỉ là tâm trạng của người Sài Gòn mà dường như là tâm cảm chung của toàn dân Việt – không phân biệt chủng tộc, giới tính hay giai cấp nào ráo trọi – nhất là những kẻ sắp từ giã cõi trần. Di Cảo của Chế Lan Viên và di bút (Đi Tìm Cái Tôi Đã Mất) của Nguyễn Khải, theo nhận xét của nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn, chỉ là những tác phẩm “cốt để xếp hàng cả hai cửa. Cửa cũ, các ông chẳng bao giờ từ. Còn nếu tình hình khác đi, có sự đánh giá khác đi, các ông đã có sẵn cục gạch của mình ở bên cửa mới (bạn đọc có sống ở Hà Nội thời bao cấp hẳn nhớ tâm trạng mỗi lần đi xếp hàng và không sao quên được những cục gạch mà có lần nào đó mình đã sử dụng).”
Tập Cận Bình tin rằng lịch sử đang dịch chuyển theo hướng có lợi cho mình. Trong chuyến thăm Vladimir Putin tại Matxcơva vào tháng 3 năm ngoái, nhà lãnh đạo Trung Quốc nói với Tổng thống Nga rằng “Ngay lúc này, chúng ta đang chứng kiến một sự thay đổi chưa từng thấy trong 100 năm qua, và chúng ta đang cùng nhau thúc đẩy sự thay đổi ấy.”
Sau 20 năm chiêu dụ Kiều bào về giúp nước không thành công, đảng CSVN lại tung ta Dự án “Phát huy nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngoài phục vụ phát triển đất nước trong tình hình mới” vào dịp Tết Nguyên Đán Giáp Thìn 2024. Đây là lần thứ tư, từ khi có Nghị quyết 36-NQ/TW ngày 26 tháng 3 năm 2004, một Quyết định nhằm mưu tìm đầu tư, hợp tác khoa học, kỹ thuật và tổ chức các Hội, Đoàn người Việt ở nước ngoài, đặt dưới quyền lãnh đạo của đảng CSVN được tung ra...
Khi số lượng di dân vượt biên bất hợp pháp qua biên giới Hoa Kỳ-Mexico tăng cao kỷ lục, câu hỏi quan trọng được đặt ra là: Làm thế nào mà Hoa Kỳ lại rơi vào tình trạng này, và Hoa Kỳ có thể học hỏi những gì từ cách các quốc gia khác ứng phó với các vấn đề an ninh biên giới và nhập cư. Chào đón công dân nước ngoài đến với đất nước của mình là một việc khá quan trọng để giúp cải thiện tăng trưởng kinh tế, tiến bộ khoa học, nguồn cung ứng lao động và đa dạng văn hóa. Nhưng những di dân vào và ở lại Hoa Kỳ mà không có thị thực hoặc giấy tờ hợp lệ có thể gây ra nhiều vấn đề – cho chính bản thân họ và cho cả chính quyền địa phương bởi tình trạng quá tải không thể kịp thời giải quyết các trường hợp xin tị nạn tại tòa án nhập cư, hoặc cung cấp nơi ở tạm thời và các nhu cầu cơ bản khác. Mà tình trạng này hiện đang xảy ra ở rất nhiều nơi ở Hoa Kỳ.
Trên vai những pho tượng trắng trong vườn Lục Xâm Bảo, lá vàng đã bắt đầu rơi lất phất. Mùa Thu Paris thật lãng mạn. Henry Kissinger đi dạo quanh một hồ nhỏ ở ngoại ô gần Rambouillet. Nơi đây từng cặp tình nhân đang nắm tay nhau bên những cành cây la đà bóng hồ. Ông thấy lòng mình nao nao (melancholic) vì sắp tới phiên họp quan trọng nhất với ông Lê Đức Thọ.
Tôi nghe nhiều người tỏ ý bi quan về hiện cảnh cũng như tương lai (đen tối) của Việt Nam. Dân tộc nào, số phận đó. Một đất nước có những người viết sử và làm luật (cỡ) như ông Dương Trung Quốc thì… đen là phải!
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.