Tại Sao Không Vãng Sinh Khi Đang Hiện Sống Mà Phải Chờ Sau Khi Chết Mới Vãng Sinh"
Bìa sách Tại Sao Không Mở Mắt Vãng Sinh Khi Đang Hiện Sống"
Thanh Tịnh Liên
(LTS: Tác giả Thanh Tịnh Liên, tức Ni Sư Thích Nữ Chân Thiền, viện chủ Thiền Viện Sùng Nghiêm, vừa xuất bản tác phẩm “Tại Sao Không Mở Mắt Vãng Sinh Khi Đang Hiện Sống"” Tác phẩm dày 270 trang, gồm nhiều bài văn xuôi và thơ về Phật Pháp. Sách này là một trong 5 cuốn sách sẽ được Thiền Viện Sùng Nghiêm trao tặng miễn phí cho quý đồng hương tới thăm chùa vào giao thừa Tết Nguyên Đán Tân Mão tại Thiền Viện Sùng Nghiêm, 11561 Magnolia Street, Garden Grove, CA 92841. Tel: (714) 636-0118. Emai : Sungnghiem@Hotmail.com. Việt Báo xin phép trích đăng bài đầu trong tác phẩm này để trân trọng giới thiệu tác phẩm với quý độc giả, và mời tới thỉnh sách vào giao thừa.)
Nếu muốn Vãng Sinh ngay khi đang hiện sống thì chúng ta chỉ cần hiểu rốt ráo về: "Bát Nhã Tâm Kinh."
Về Bát Nhã Tâm Kinh, chúng ta tạm phương tiện nói nghĩa Hình Tướng và Vô Hình Tướng của nó.
Nghĩa Hình Tướng: Bát Nhã Tâm hay còn gọi là Trí Tuệ Tâm, được ví như thanh gươm vô cùng rắn chắc, và sắc bén như kim cương, có thể dùng dể chặt dược những vật cứng nhất như sắt, thép v..v..
Nghĩa Vô Tướng: Tâm Trí Bát Nhã chiếu rọi tới đâu thì màn Vô Minh dầu cho có sâu dầy cách mấy cũng phải tan rã.
Đó chỉ là một cách nói, một cách tỉ dụ khi Đức Phật giảng dậy cho các dệ tử dễ hiểu, chứ thật ra thì Tâm Bát Nhã ấy, nó sẵn có ở trong muôn loài, muôn vật chúng sinh chúng ta, nhưng chỉ vì Vô Minh: Tham, Sân, Si quá sâu, và mọi tập khí Hỷ, Nộ, Ái, Ố v..v.. quá dầy, nên chúng ta dã tự che kín Chân Tâm Bát Nhã ấy mà thôi!
Nay muốn Trí Tuệ Bát Nhã hiển bầy, thì chúng ta cũng phải Phương Tiện, dùng một trong 84 ngàn Pháp Môn mà Đức Phật dã trao truyền dể mà Tu; Tu làm sao cho màn Vô Minh mỏng dần di, nghĩa là tùy theo sự Tu Hành chân chính, kiên trì, sự buông xả mọi tập khí và sự nỗ lực cỡ nào thì Tâm Trí Bát Nhã sẽ hiển bầy, ló rạng ra tương ứng với sự Tu Hành của chúng ta như thế ấỵ
Còn Chân Tâm Bát Nhã của chúng ta thì lúc nào nó cũng vẫn tự tịnh, tự dịnh, tự chiếu tỏa cùng khắp Pháp Giới, cùng khắp không gian, thời gian, tự nó thông suốt vũ trụ vạn vật huyễn hóa Hình Tướng và Vô Hình Tướng, có/không, không/có nàỵ
Trong 260 chữ của Bát Nhã Tâm Kinh dã chỉ thẳng rất rõ ràng, không có nghĩa den, nghĩa bóng gì hết. Chỉ tại chúng ta Vô Minh, luôn sống trong vọng tưởng! Nên lúc nào cũng tự tưởng tượng rồi vẽ râu, vẽ cánh, méo mó sự thật của Bát Nhã, dể tự biến Bát Nhã thành nghĩa hai chiều suôi/ngược, trắng/đen của phàm phu thế tục!
Nếu chịu tĩnh tâm bằng những phương tiện như: Niệm Phật, Trì Chú, Thiền Định, Tham Công Án, dể từ Tán Loạn Tâm về Nhất Tâm, tiến tới Vô Tâm rồi vượt cả Vô Tâm/ Hữu Tâm, Nhất Tâm, thì ngay dó là Bát Nhã, là Tính Không, y như bốn Kinh sau dây dã dẫn chứng:
1.Lăng Nghiêm Kinh:
"Tính không rời Tướng, Tướng không rời Tính."
"Vô Tướng là Hữu Tướng, Hữu Tướng là Vô Tướng."
2. Bát Nhã Tâm Kinh:
"Sắc chẳng khác Không, Không chẳng khác Sắc"
"Sắc chính là Không, Không chính là Sắc."
3. Pháp Hoa Kinh: "Cảnh vốn tự Không, dâu cần hoại Tướng"
4. Kinh Duy Ma Cật, Ngài Hỷ Kiến Bồ Tát nói:
- "Sắc tức là Không, chẳng phải Sắc diệt rồi mới là Không; Tính của Sắc tự là Không."
- "Ngũ Uẩn tức là Không, không cần chờ Ngũ Uẩn diệt rồi mới là Không; Tính Ngũ Uẩn tự là Không, thì Thọ, Tưởng, Hành, Thức cũng y như thế!"
Xin thưa rằng: Không ở dây là Chân Không, là Tính Không, là Pháp Tính, là cái vốn Vô Vi, nó là Tính Thấy, Tính Nghe, Tính Hay Biết, dều chỉ là Một Tính, nó còn dược gọi là Tâm Trí Bát Nhã, trường tồn, bất biến.
Tâm Trí này vốn Vô Tướng, nên ẩn mật trong muôn loài, muôn vật hiện hữu; Cũng vì ẩn mật, nên nó mầu nhiệm thiêng liêng, dồng thời nó lại vi diệu hiện tướng, để thể hiện hữu dụng cùng khắp nơi nơi, trong muôn loài, vũ trụ, vạn vật. Nó chính là Cha Mẹ của vạn Pháp! Nó rất khó hiểu, nếu chúng ta chỉ hiểu một chiều theo cái hiểu thông thường của Thế Gian: Một là chấp thật, hai là chấp giả; Hay một là chấp Sống, hai là chấp Chết thì hoàn toàn di vào Sinh Tử.
Vậy chúng ta nên hiểu nó bằng cả hai mặt:
Đời và Đạo; Âm và Dương; Có và Không.
Hãy tạm ví Chân Lý như một đồng tiền có hai mặt, hai mặt ấy không thể rời nhau, nếu rời dược nhau thì không phải là dồng tiền! Với Đạo và Đời cũng y như vậy, thì Chân Lý cũng thế; Do lẽ dó mà trong Kinh nói: "Phật Pháp không rời Thế Gian Pháp". Cho nên mất Thân này là tự dộng phải có ngay Thân khác, nhưng đặc biệt chỉ có Thân Người là có dầy dủ Sáu Căn, mới có thể hiểu dược cái thâm sâu của Chân Lý này, và mới giải thoát dược Sinh Tử!
Như đã nói ở trên về Chân Lý, Tính Không qua sự minh chứng của bốn Kinh: Lăng Nghiêm, Bát Nhã, Pháp Hoa, và Duy Ma Cật.
Nay chúng ta hãy cùng suy tư, dể hiểu sâu rộng hơn:
Về mặt Vô Tướng
Là mặt của bên kia dồng tiền hay còn gọi là Mặt Đạọ
Với những danh từ gán ghép, dặt tên cho nó, làm chúng ta rất nhầm lẫn và khó hiểu! Nay xin dược giải thích rõ hơn về những danh từ dược dặt gọi cho cái Vô Tướng ấy:
"Vô": Tức là "Không" (đừng chấp là không có gì)
"Âm": Vì nó Ẩn Mật, Vô Hình Tướng, cũng được gọi "Âm Cảnh" hay "Âm Thế".
"Vô Tướng": Tức không có hình dạng gì.
Dù nó được gọi bằng tên gì chăng nữa, thì cả ba danh từ trên đều nghĩa là: Tính Không, Chân Không.
Về mặt Hữu Tướng
Tạm gọi là mặt bên đây của đồng tiền, tức Mặt Đời, nó dược gọi bằng những danh từ sau dây:
Hữu: Tức là Có (Đừng chấp là có thật)
Dương: Muôn cảnh vật hiện hữu tại dây, còn gọi là "Dương Thế".
Sắc: Là Sắc Tướng của muôn hình vạn trạng.
Dù gọi tên là gì, thì cả ba danh từ trên dây vẫn dều cùng một nghĩa là:
“Muôn cảnh vật hiện tướng dang hiện hữu tại thế gian này".
Chú ý:
Mặt Đời không rời Mặt Đạo, nếu chấp mặt Đời phải tiêu diệt di, rồi vứt bỏ đi, để đi kiếm cái Vô tướng là Cực Lạc, là Chân Lý thì chúng ta sẽ di vào cái: "Có Trí mà không có Thân" là hoàn toàn di ngược lại với Chân Lý, cũng là ngược lại với bốn Kinh dã kể ở trên.
Vì là Chân Lý Giải Thoát Sinh Tử nên cũng khó hiểu và khó thâm nhập dược là lẽ dương nhiên, nhất là dối với những ai ít chịu suy tư, nông cạn và làm biếng, là chưa dủ duyên lành! Trái lại với những ai dã chán ngán cuộc đời Vô Thường, dâu bể, nên muốn xả bỏ Vô Thường và khao khát Chân Lý, là cái giải thoát Sinh Tử thì chẳng ngại gì chông gai; Những hành giả này lúc nào cũng khắc khoải, suy tư, nên dù có khó cách mấy cũng nỗ lực dể hiểu và dể vượt quạ
Nói tóm lại: Khi đã hiểu rốt ráo về cả hai mặt Đời và Đạo tức là đã thấu đáo về Sắc và Không của Bát Nhã Tâm, thì chúng ta đã biết chắc chắn rằng: "Pháp Giới Tự Dung Thông".
Sắc/ Không vốn chẳng hai, Thân/Tâm chỉ là Một
Tức là: Tướng không rời Tính, Tính không rời Tướng, Vô Tướng không rời Hữu Tướng
Và: Âm Thế chẳng rời Dương Thế
Nếu quả là thế thì không thể nào chúng ta còn bị ở trong tình trạng: Chia xẻ Thân Tâm làm hai, nghĩa là chỉ chọn Cái Tâm mà bỏ di Cái Thân, hay chỉ chọn Cái Không mà bỏ di Cái Sắc, tức là chỉ chọn Cực Lạc là nơi Vô Tướng, mà bỏ di cái Hữu Tướng là cái Thân mình, và vũ trụ vạn vật ngay nơi dang hiện sống; Hiểu như thế là hiểu lầm, tức hiểu một chiều dể rơi vào tình trạng:
Hữu Trí mà Vô Thân (tức Có Trí mà không có Thân).
Là không dúng với những Mạch Kinh dã kể ở trên, cũng chẳng dúng như Đức Phật dã nói:
- Phật Pháp không rời Thế Gian Pháp"
Vâng, rời làm sao được mà rời, khi Vũ Trụ Vạn Vật, Tam Thiên Đại Thiên Thế Giới không gì ngoài Sắc với Không.
Vậy thì chúng ta đi đâu khi dang Sống cũng như sau khi Chết"
Hay vẫn là hiện hữu ngay dây, với cái Thân Tâm cùng vũ trụ vạn vật dều toàn là Sắc và toàn là Không, cùng là Toàn Tâm Trí Bát Nhã. Xin nhấn mạnh và nhắc lại:
Lăng Nghiêm Kinh
Về Thân Tâm: Tính là Tướng, Tướng là Tính. Tính Giác là Chân Không, Tính Không là Chân Giác.
Về Vũ Trụ Vạn Vật: Tính của Địa, Thủy, Hỏa, Phong (Đất, Nước, Gió, Vũ Trụ, Lửa) là Chân Không; Tính của Chân Không là Địa, Thủy, Hỏa, Phong (Đất, Nước, Gió, Lửa).
Và cũng xin nhắc lại một lần nữa: Ngài Hỷ Kiến trong
Kinh Duy Ma Cật nói về Bát Nhã Tâm Kinh:
- "Sắc tức là Không, chẳng phải Sắc diệt rồi mới Không, Tính của Sắc tự Không."
- "Ngũ Uẩn tức là Không, chẳng phải Ngũ Uẩn diệt rồi mới Không, Tính Ngũ Uẩn tự Không thì: Thọ, Tưởng, Hành, Thức cũng thế".
Như vậy Thân Tâm, Vũ Trụ Thế Giới là đồng nhất; Đã hiểu rốt ráo về Thân Tâm và Vũ Trụ Vạn Vật cùng một Chân Lý như thế, thì phải chăng chúng ta dã và dang Vãng Sinh khi dang hiện Sống, nghĩa là Vãng Sinh Khi Đang Mở Mắt, thật là vô cùng tuyệt diệu!
Vậy thì tại sao phải chờ sau khi Chết mới Vãng Sinh" Có nghĩa là chờ khi mắt dã nhắm lại rồi, thì liệu có trễ không" Liệu lúc ấy chúng ta có hiểu nổi cái Chân Lý Thâm Sâu của Tâm Trí Bát Nhã không" Cho dù có Minh Sư khai thị rõ ràng tới dâu, e cũng vẫn khó lắm!
Chú ý:
Xin dừng "chấp thật" trong nghĩa "Sắc" với "Không", mà phải hiểu như sau dây mới là thật hiểu: "Sắc" chẳng phải "Sắc", mới thật là "Sắc". "Không" chẳng phải "Không", mới thật là "Không".
Tức Không chấp thật là Sắc, thì mới chính là Sắc; Không chấp thật là Không, thì mới thật là Không.
Vì phủ dịnh nên "Không".
Vì thừa nhận nên "Bất Không".
Vì phủ dịnh nên "Vô Ngã".
Vì thừa nhận nên "Có Ngã" (Đại Ngã).
Do dó: Chẳng nói phủ định, cũng chẳng nói thừa nhận, mà vượt ra ngoài phủ định lẫn thừa nhận.