Hôm nay,  

Quán Không, Và Chiếc Ghế Trống

12/15/201000:00:00(View: 5960)

Quán Không, Và Chiếc Ghế Trống

Huệ Trân
Sau thời công phu sáng, tôi thường tự đãi mình một tách trà nóng. Bên khung cửa sổ nhìn ra khu vườn trước, những cây phong cao sững, lá vàng từ mùa thu, đang chuyển mầu đỏ sậm, và thỉnh thoảng, có những lá đã vui chơi, bay theo làn gió mùa đông mời gọi.
Thường, đây là những khoảnh khắc tĩnh lặng và an lạc nhất trong ngày, khi lời kinh còn phảng phất không gian và hương trà nhắc nhở “Hãy sống giây phút hiện tại.”
Ấy thế, mà sáng nay, hương trà lại luẩn quẩn bên hiên hàng xóm. Họ làm gì mà thức sớm, mở cửa garage, rồi khá huyên náo" Hình như họ chuẩn bị đi đâu" Chắc thế, vì người lớn, trẻ nhỏ đều lăng xăng túi xách, và không lâu, họ gọi nhau lên xe; xe lăn bánh, cửa garage tự động, từ từ khép.
Không gian trở lại yên tĩnh.
Bây giờ, căn nhà hàng xóm hoàn toàn trống vắng sau khi mọi người cùng lên xe, cho một chuyến đi chơi đâu đó.
Bên này, tách trà đã nguội, nhưng hậu vị thơm thơm, chát chát của lá trà thì vẫn còn nguyên.
Có thật căn nhà đã trống vắng" Có thật hương trà hãy còn nguyên, hay chỉ là cảm nhận" Vừa khởi nghĩ thế, tôi tưởng như  quanh đây, tiếng mõ ai đang gõ nhịp âm, trầm và đều của có, không, còn, mất …
Những cánh cửa căn nhà hàng xóm đã đóng kín. Mọi người đều vừa lên xe, ra khỏi nhà. Căn nhà đó đang trống vắng. Đúng thế. Nhưng nhìn qua lăng kính Tương Tức, Tương Nhập thì căn nhà đó có thật trống vắng không" Hay nhìn vào căn nhà ấy, bằng tâm Quán Không, vẫn thấy có người, có đầy đủ gia đình hàng xóm, dù thực tế, họ đã ra khỏi nhà"
Tại sao thế"
Bởi có người ở, mới có cái nhà. Ta không xây nhà để không có người ở. Vậy, “Sắc tức thị không, không tức thị sắc” có phải là:
“Căn bản của KHÔNG là, cái này có thì cái kia có; và căn bản của CÓ là, cái này không, thì cái kia không”"
Rốt ráo, thì không chứng đắc mới thực là chứng đắc.
Khoảnh khắc tĩnh lặng buổi sáng, tưởng chỉ bị chút huyên náo của hàng xóm khiến tâm khởi xôn xao thế thôi. Ai ngờ, cái có, cái không đó lại lập tức liên tưởng đến tin tức đang chạy hàng đầu trong loạt tin tuần qua, mà dù không đọc nội dung, chỉ những cái tựa cũng đủ biết điều gì. Đó là, giải Nobel Hòa Bình năm nay đã long trọng được đặt vào một chiếc ghế trống!
Một giải thưởng cao quý, được thế giới công nhận từ nhiều thập niên, nay trao giải cho CÁI GHẾ TRỐNG ư"
Tất nhiên là không phải!
Toàn thể quan khách dự kiến, đồng loạt đứng dậy, vỗ tay không dứt, để bầy tỏ sự ngưỡng mộ và tán thưởng khi chủ tịch Ủy Ban giải Nobel Hòa Bình đặt văn bằng và huy chương vào chiếc ghế trống.
Mọi người nhiệt liệt ngưỡng mộ và tán thưởng CÁI GHẾ TRỐNG ư"
Tất nhiên là không phải!
Vậy thì, cái ghế đó TRỐNG, nhưng KHÔNG TRỐNG.
Văn bằng KHÔNG người nhận, nhưng CÓ người đã được chọn để nhận.
Sở dĩ có hình ảnh chiếc ghế trống và văn bằng cùng huy chương không người nhận là vì người được chọn lãnh giải là ông Lưu Hiểu Ba, một, trong những sinh viên lãnh tụ phong trào tranh đấu cho Dân Chủ và Nhân Quyền tại Thiên An Môn năm 1989. Người sinh viên 33 tuổi năm đó, nay đã 54 tuổi, và hiện đang ngồi tù với bản án 11 năm, bị tuyên xử năm 2009.    
Nhà nước Trung Quốc đã tận dụng mọi cách, để phản đối Ủy Ban tuyển chọn nhân vật đoạt giải Nobel Hòa Bình ở Na Uy, khi tên ông Lưu Hiểu Ba được công bố. Không ngăn được điều đó, họ quay sang, dùng toàn lực, thế kẻ mạnh để vận động những nước còn bị dưới áp lực của họ, không được cho đại sứ ở Na Uy tới dự lễ trao giải (trong đó có Việt Nam). Tất nhiên, là nhà nước ngăn cấm ngay, tất cả những ai được nhận diện là gia đình, thân thuộc, bạn bè của ông Lưu Hiểu Ba, để không cho phép được đại diện ông, sang Na Uy lãnh giải.


Lịch sử luôn tái diễn những điều nghịch lý, bị phản ứng ngược, nhưng hầu như, không nhà nước độc tài nào đi ra ngoài vết xe đó được. Những gì càng bị cấm đoán, càng bùng vỡ khát khao đòi hỏi; càng bưng bít, càng gây hiếu kỳ tìm tới, phanh phui.         
Vô hình chung, trước sự theo dõi và quan tâm của toàn cầu, chiếc ghế trống đã hiển lộ toàn diện những gì mà nhà nước Trung Quốc muốn phủ nhận, muốn che dấu! Đó là tước đoạt nhân quyền của người dân.
Lại nữa, điều cực kỳ hiển nhiên, là dưới nhãn quan toàn cầu, dù bênh hay trống, dù thuận hay nghịch, đều nhìn thấy nơi chiếc ghế không người ngồi đó, có nhân dáng kiên cường, dũng mãnh mà lại vô cùng an lạc, từ bi, của khôi nguyên giải Nobel Hòa Bình năm 2010: Nhà tranh đấu cho nhân quyền, ông Lưu Hiểu Ba, đang chịu án 11 năm trong nhà tù Trung Quốc vì dám tiếp tục nói những điều mà nhà nước không cho nói!
Hầu hết, ai đọc bất cứ hình thức thông tin nào về lễ trao giải Nobel Hòa Bình năm 2010, đều NHÌN thấy ông Lưu Hiểu Ba NGỒI ở chiếc ghế trống đó! Thế mới lạ! Tưởng như, nếu nhà nước Trung Quốc cho phép ông sang lãnh giải thì hình hài bằng xương bằng thịt của ông trên chiếc ghế danh dự ấy, có thể, chưa rực rỡ, linh động, bằng TINH THẦN LƯU HIỂU BA.  Đó là sức mạnh của vô hình, vô tướng, một sức mạnh không quyền uy, không thế lực nào xâm phạm được. Chiếc ghế trống hôm nay, chắc chắn sẽ thành vô giá, trong bất cứ cuộc đấu giá nào!
Đời sống tâm linh nó lạ thế đấy. Bao năm khổ công cầu đạo, quỳ dưới tuyết sương suốt ngày đêm ngoài cửa động, đến mức toàn thân sắp thành đá, rồi chặt cánh tay dâng lên cúng dường cũng vẫn chẳng thấy đạo đâu. Vậy mà, chỉ một lời khai thị đúng lúc của Tổ Đạt Ma: “Đưa cái tâm bất an ra đây, ta an cho”, Ngài Huệ Khả đã ngộ đạo, thấu suốt cõi mình, cõi người.
Hình ảnh “chiếc ghế trống, mà không trống” đã khiến nhà nước Trung Quốc nhức nhối tới mức vội vã đặt ra một giải khác, mang tên là “ Giải Khổng Tử Hòa Bình”, hy vọng đối đầu với giải Nobel Hòa Binh, đã được thế giới tôn trọng và chấp nhận từ nhiều thập niên qua. Nhưng vì quá vội vã để khai sinh giải này trước ngày phát giải Nobel Hòa Bình ở Na Uy,  nên người được chọn lãnh giải Khổng Tử Hòa Bình lần đầu, là phó Tổng Thống Trung Hoa dân quốc ở Đài Loan, lại không về kịp, khi Bắc Kinh tuyên bố! Sự dàn dựng còn hấp tấp tới mức nhân viên phụ trách văn phòng của người trúng giải cũng không biết gì về tin này! Rồi em bé gái được cho mặc áo đẹp, lên đại diện nhận giải, cũng chẳng biết nhờ tiêu chuẩn nào mà được chọn! Những doanh nhân, những ủng hộ viên giải này, trên nguyên tắc, sẽ hội ý để bầu chọn qua Internet, thì do tình trạng quá khần trương nên lần này chưa kịp hội ý gì!  Vân vân … và … vân vân …
Chuyện “khó thấy”, là sao những đầu óc thường mưu lược, lại làm những chuyện “dễ thấy” như thế"
 Bây giờ, chẳng phải tách trà chỉ nguội, mà bình trà cũng cạn. Không dám pha thêm trà vì biết đâu, nhâm nhi nhàn hạ lại dẫn tới Quán Khó, Quán Dễ, thì hết ngày mất thôi! Trong khi, nắng sớm ngoài kia đã lên rồi. Biết bao nụ-ý cúng dường một ngày mới, sẽ thăng hoa!
Huệ Trân
(Trung tuần, tháng cuối 2010)  

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Một người không có trí nhớ, hoặc mất trí nhớ, cuộc đời người ấy sẽ ra sao? Giả thiết người ấy là ta, cuộc đời ta sẽ như thế nào? Ai cũng có thể tự đặt câu hỏi như vậy và tự cảm nghiệm về ý nghĩa của câu hỏi ấy. Sinh hoạt của một người, trong từng giây phút, không thể không có trí nhớ. Cho đến một sinh vật hạ đẳng mà chúng ta có thể biết, cũng không thể tồn tại nếu nó không có trí nhớ. Trí nhớ, Sanskrit nói là smṛti, Pāli nói là sati, và từ Hán tương đương là niệm, cũng gọi là ức niệm, tùy niệm. Nói theo ngôn ngữ thường dùng hiện đại, niệm là ký ức. Đó là khả năng ghi nhớ những gì đã xảy ra, thậm chí trong thời gian ngắn nhất, một sát-na, mà ý thức thô phù của ta không thể đo được.
Ba mươi năm trước tôi là thành viên hội đồng quản trị của một cơ quan xã hội giúp người tị nạn trong khu vực phía đông Vịnh San Francisco (East Bay) nên khi đó đã có dịp tiếp xúc với người tị nạn Afghan. Nhiều người Afghan đã đến Mỹ theo diện tị nạn cộng sản sau khi Hồng quân Liên Xô xâm chiếm đất nước của họ và cũng có người tị nạn vì bị chính quyền Taliban đàn áp. Người Afghan là nạn nhân của hai chế độ khác nhau trên quê hương, chế độ cộng sản và chế độ Hồi giáo cực đoan.
Bà Merkel là một người đàn bà giản dị và khiêm tốn, nhưng nhiều đối thủ chính trị lại rất nể trọng bà, họ đã truyền cho nhau một kinh nghiệm quý báu là “Không bao giờ được đánh giá thấp bà Merkel”.
Hai cụm từ trọng cung (supply-side) và trọng cầu (demand-side) thường dùng cho chính sách kinh tế trong nước Mỹ (đảng Cộng Hòa trọng cung, Dân Chủ trọng cầu) nhưng đồng thời cũng thể hiện hai mô hình phát triển của Hoa Kỳ (trọng cầu) và Trung Quốc (trọng cung). Bài viết này sẽ tìm hiểu cả hai trường hợp. Trọng cung là chủ trương kinh tế của đảng Cộng Hoà từ thời Tổng Thống Ronald Reagan nhằm cắt giảm thuế má để khuyến khích người có tiền tăng gia đầu tư sản xuất. Mức cung tăng (sản xuất tăng) vừa hạ thấp giá cả hàng hóa và dịch vụ lại tạo thêm công ăn việc làm mới. Nhờ vậy mức cầu theo đó cũng tăng giúp cho kinh tế phát triển để mang lại lợi ích cho mọi thành phần trong xã hội. Giảm thuế lại thêm đồng nghĩa với hạn chế vai trò của nhà nước, tức là thu nhỏ khu vực công mà phát huy khu vực tư.
Gần đây, chỉ một tấm ảnh của nữ trung sĩ TQLC Hoa Kỳ – Nicole Gee – ôm em bé người Afghan với thái độ đầy thương cảm thì nhiều cơ quan truyền thông quốc tế đều phổ biến và ca ngợi! Nhân loại chỉ tôn trọng sự thật, trân quý những tâm hồn cao thượng và những trái tim biết rung động vì tình người – như nữ trung sĩ TQLC Hoa Kỳ, Nicole Gee – chứ nhân loại không bao giờ thán phục hoặc ca ngợi sự tàn ác, dã man, như những gì người csVN đã và đang áp đặt lên thân phận người Việt Nam!
Tôi vừa mới nghe ông Trần Văn Chánh phàn nàn: “Cũng như các hội nghề nghiệp khác, chưa từng thấy Hội nhà giáo Việt Nam, giới giáo chức đại học có một lời tuyên bố hay kiến nghị tập thể gì liên quan những vấn đề quốc kế dân sinh hệ trọng; thậm chí nhiều lần Trung Quốc lấn hiếp Việt Nam ở Biển Đông trong khoảng chục năm gần đây cũng thấy họ im phăng phắc, thủ khẩu như bình…”
Thế giới chưa an toàn và sẽ không an toàn chừng nào các lực lượng khủng bố trên thế giới vẫn còn tồn tại, một nhà báo, cựu phóng viên đài VOA từ Washington D.C. nói với BBC News Tiếng Việt hôm thứ Năm. Sự kiện nước Mỹ bị tấn công vào ngày 11 tháng 09 năm 2001 đã thức tỉnh thế giới về một chủ nghĩa khủng bố Hồi giáo cực đoan đang tồn tại trong lòng các nước Trung Đông. Giờ đây, sau 20 năm, liệu người Mỹ có cảm thấy an toàn hơn hay họ vẫn lo sợ về một cuộc tấn công khủng bố khác trên đất nước Hoa Kỳ hay nhằm vào công dân Mỹ ở nước ngoài.
Vào ngày 11 tháng 9 năm 2001, những kẻ khủng bố Hồi giáo thuộc tổ chức mạng lưới Al-Qaida đã dùng bốn phi cơ dân sự làm thành một loại vũ khí quân sự để tấn công vào Trung tâm Thương mại Thế giới ở New York và Lầu Năm Góc ở Washington D.C. Các sự kiện không tặc loại này là lần đầu tiên trong lịch sử chiến tranh của nhân loại và đã có hậu quả nghiêm trọng nhất trong lịch sử cận đại.
Thứ Bảy, ngày 11/09/2021, nước Mỹ tưởng niệm 20 năm vụ tấn công khủng bố thảm khốc nhắm vào tòa tháp đôi World Trade Center ở New York, bộ Quốc Phòng Mỹ ở gần Washington và ở Shanksville tại Pennsylvania. Gần 3.000 người chết, hơn 6.000 người bị thương. Hai mươi năm đã trôi qua, vẫn còn hơn 1.000 người chết đã không thể nhận dạng. Chấn thương tinh thần vẫn còn đó. Mối họa khủng bố vẫn đeo dai dẳng. Lễ tưởng niệm 20 năm vụ khủng bố gây chấn động thế giới diễn ra như thế nào, nhất là trong bối cảnh Hoa Kỳ triệt thoái toàn bộ binh sĩ khỏi Afghanistan sau đúng 20 năm tham chiến ? Mời quý vị theo dõi cuộc phỏng vấn với nhà báo Phạm Trần từ Washington.
Những em bé tò mò, lần đầu tiên ngước mắt lên trời, thấy trăng sao, lập tức nảy sinh ước muốn thám hiểm cõi mênh mông ở cuối, ở xa hơn tầm mắt mình. Lớn lên, ý thức được kích thước Vũ Trụ và giới hạn của đời người, biết đường dài dẫn tới một tinh cầu có thể đòi hỏi sự nối tiếp của muôn triệu kiếp người. Tỉnh ra và thất vọng. Ước muốn chỉ còn là ước mơ vương vấn nơi những truyện khoa học giả tưởng huyền hoặc vẽ ra hình ảnh một con tàu kỳ diệu: một ngày kia khoa học tiến bộ, hành khách đáp phi thuyền du lịch tối tân sẽ lọt vào cõi thời gian ngừng trôi, có cuộc đời dài vô tận, tha hồ chu du khắp cùng vũ trụ.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.