Hôm nay,  

Phạm Văn Liễu: Con Ngựa Già Chưa Biết Mỏi

29/10/201000:00:00(Xem: 7531)

Phạm Văn Liễu: Con Ngựa Già Chưa Biết Mỏi

Phạm Trần
Lời Tác giả: 8 năm trước đây, khi Đại tá Phạm Văn Liễu trao  cho tôi Cuốn Hồi ký của ông “Trả Ta Sông Núi” có kèm theo lời dặn dò: “ Ông Phạm Trần, biếu ông Cuốn sách để ông xem rồi viết cho vài chữ.”
Tôi băn khoăn không biết phải viết gì vì  Đại tá Liễu đã là  một Nhân vật của  Lịch sử từ Cuộc đảo chính hụt Tổng thống Ngô Đình Diệm năm 1960. Nhưng rồi tôi đã “đáp lễ” ông với những dòng mộc mạc dưới đây.
Sau khi đọc, ông gọi cho tôi từ Houston với lời “cảm ơn người đồng hương” rồi cười sảng khóai như ngày nào.
Bây giờ ông đã ra đi vĩnh viễn ngày 20 tháng 10 (2010), hưởng thọ 83 tuổi. Tôi xin phổ biến lại Bài viết này để tiễn đưa ông với một tấm lòng kính mến của một người cùng quê hương ở hạ lưu sông Hồng miền Bắc Việt Nam.
*
Ít người Việt miền Nam không biết đến ông Phạm Văn Liễu vì tên ông cứ trôi nổi với thời gian từ khi Thiếu tá Liễu tham gia cuộc đảo chính không thành chống lại chính phủ Ngô Đình Diệm ngày 11-11-1960.
Bây giờ ở tuổi 75, ông viết hồi ký "Trả Ta Sông Núi", đã in được 2 trong số 3 tập, kể lại đời mình từ khi thanh niên Phạm Văn Liễu đi kháng chiến chống Tây rồi lưu lạc sang Tầu (1946 - 1949) với ẩn danh "Cách mạng" Trần Sơn Nam trước khi trở về Việt Nam tiếp tục cầm quân đánh nhau với Việt Minh.
Đi cùng quân lính vào miền Nam sau Hiệp định Geneve 1954 chia đôi đất nước, người sỹ quan trưởng thành Phạm Văn Liễu tiếp tục chỉ huy quân đội chống lại quân Cộng sản. Năm 1955 ông là người đã thành lập Binh chủng Thủy quân Lục chiến của quân đội Việt Nam Cộng Hòa và là cấp Chỉ huy thứ hai của binh chủng này.
Đến tháng 11-1960, người từng xưng "Thưa Tổng thống, Tôi người Bắc" với Tổng thống Ngô Đình Diệm để bị "từ chối bắt tay" vào thời các Sỹ quan Quân đội hay các chính khách, cấp chỉ huy dân chính phải "Bẩm Cụ, Thưa con", ông Liễu tham gia cuộc đảo chính trong nhóm Trung tá Vương Văn Đông và Đại tá Nguyễn Chánh Thi. Cuộc đảo chính bất thành khiến ông phải lưu vong qua Cao Miên.
Sau cuộc đảo chính lần hai chống chính phủ Ngô Đình Diệm thành công của nhóm Sỹ quan do tướng Dương Văn Minh cầm đầu năm 1963, ông Liễu giã từ cuộc đời lưu vong bên xứ Chùa Tháp trở về Quân đội tiếp tục cầm quân đánh nhau với Cộng sản hoặc đào tạo Quân đội.
Thời chính phủ Phan Huy Quát ông được mời giữ chức Tổng Giám đốc Cảnh sát Quốc gia từ 1965 đến tháng 5/1966.
Nhưng cuộc đời binh nghiệp và chính trị của "chuyên viên đảo chính" Phạm Văn Liễu, như nhiều người đã gọi ông hay như ông nhìn nhận "đã tham gia nhiều cuộc đảo chính và phản đảo chính", được coi như "bế mạc" từ năm 1969, khi Tổng thống (Trung tướng) Nguyễn Văn Thiệu, sau thời gian củng cố quyền hành, bổ nhiệm ông giữ chức "ngồi chơi xơi nước" Chỉ huy Trưởng căn cứ huấn luyện Đồng Tâm ở vùng Cửu Long.
Tại đây, có lần ông Liễu bị "ai đó" đầu độc bằng thuốc bỏ vào một bát chè, nhưng thoát chết sau một thời gian dài chữa trị. Ông Liễu nói ông không thể gán cho ai làm việc đó vì ông không nắm trong tay bằng chứng cụ thể nhưng vào lúc bấy giờ, với tính tình bộc trực, ưa nói ngay, nói thẳng và nói thật dù mất lòng của ông Liễu, ai cũng nghi đó là một cuộc "đầu độc" có lý do của những người không ưa hay sợ ông.
Ông Liễu như cá sống trên khô như chim bị nhốt vào lồng không còn toan tính gì được nữa. Vì vậy mà ông đã coi Tổng thống Thịêu là "người có tài củng cố quyền hành chứ không có tài đánh giặc."
Tổng thống Thiệu đã có lần muốn ông đi làm Tỉnh trưởng cho "khuất mắt" nhưng ông Liễu từ chối vì, theo lời ông: "Tôi biết ông Thịêu muốn hủ hoá tôi, đưa tôi vào con đường tham nhũng để bêu xấu tôi."
Và theo lời Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng (Đại học George Mason) thì ông Liễu cũng từ chối lên cấp Tướng, nếu chỉ để "ngồi mát ăn bát vàng" chẳng có quyền hành gì cả. Ông Liễu , vẫn theo Giáo sư Hùng, chỉ muốn làm Tư lệnh Thủy quân Lục Chiến hay Tư lệnh Sư Đoàn 7 Bộ Binh là hai đơn vị có thể làm đảo chính nên ông Thịêu không bao giờ đồng ý!
Sau ngày quân Cộng sản miền Bắc chiếm Sài Gòn ngày 30-4-1975, mái đầu "đen - bạc" Phạm Văn Liễu lưu vong lần thứ ba sang Hoa Kỳ để rồi lại rơi vào hệ lụy "kháng chiến không đi tới đâu" với "Mặt trận Quốc gia thống nhất Giải phóng Việt Nam" hay còn được gọi là "Mặt trận Hoàng Cơ Minh", từ năm 1980 .


Giấc mộng làm cách mạng của ông cựu Đại tá Phạm Văn Liễu một lần nữa không thành. Mặt trận Hoàng Cơ Minh mà ông đã góp công xây dựng và lãnh đạo dưới tên "kháng chiến" Trần Trung Sơn từ những ngày còn trong trứng nước đã vỡ ra làm hai mảnh sau thời gian cơm không lành mà canh cũng chẳng ngọt giữa ông và Đề đốc Hoàng Cơ Minh và anh em nhà tướng Minh. Sự bất đồng đưa đến đổ vỡ giữa họ tập trung vào guồng máy được gọi là "tổ chức kinh tài" cho Mặt trận do anh em nhà họ Hoàng và các cộng sự viên thân tín của tướng Minh điều hành.
Những người ly khai quây quần với ông Liễu có cả Cựu Đại tá Cảnh sát Trần Minh Công đã tìm cách lấy lại uy tín "kháng chiến" sau khi Mặt trận tan hàng rã cánh năm 1983 với nhiều tai tiếng "tiền bạc lem nhem" và "kháng chiến bên ngoài Việt Nam". Nhưng ông Liễu cũng đã "sức cùng lực kiệt" không đi thêm được bước nào nữa.
Phe theo Đề đốc Minh tiếp tục con đường được gọi là "dấn thân" nhưng họ cũng đã bị đứt gánh giữa đường, trên đường xâm nhập vào Việt Nam, theo ngả miền Nam nước Lào. Tướng Minh bị thiệt mạng. Một số người khác bị mất tích hay bị bắt trong cuộc đụng độ với quân Cộng sản Lào và Việt Nam ngày 28-8-1987, theo tin của Mặt trận phổ biến ngày 28-7-2001. Sự "giấu tin" tướng Minh tử trận trong suốt 14 năm từ 1987 đến 2001 vẫn chưa được giới Lãnh đạo còn lại của tổ chức giải đáp minh bạch.
Tuy nhiên sự đổ vỡ của phong trào kháng chiến đã làm cho ông Liễu ray rứt khá nhiều vì có nhiều người đã vì tin ông mà ủng hộ hay đi về "khu kháng chiến" với Mặt trận. Mái tóc hoa râm của ông vì vậy mà đã bạc đi nhanh hơn thời gian từ dạo ấy.
Sự "bạc trắng tay không" bây giờ, 20 năm sau, đã mon men xói mòn cuộc đời thất bại nhiều hơn thành công của một Phạm Văn Liễu, chỉ mới biết khóc với thật lòng mình một lần trong đời, theo lời ông kể, là khi ông đứng trước quan tài vợ mình. Bà Liễu ra đi ngày 29-2-1992 để lại cho ông 7 người con vào năm Bà mới 54 tuổi.
Hình ảnh một Sỹ quan oai phong, hùng tráng trong bộ quân phục Thủy quân Lục chiến năm nào của ông Liễu không còn nữa. Nó cũng mất đi hình ảnh thiêng liêng của một chiến sỹ "kháng chiến áo nâu, mũ vải rộng vành và khăn rằn ri quàng cổ " của Phạm Văn Liễu khi ông còn đứng trước đám đông người Việt tị nạn chăm chú nghe ông nói chuyện kháng chiến giải phóng quê hương khỏi ách cai trị của Cộng sản Việt Nam vào những năm 1981 - 1982.
Ngày nay, sau "những cơn đau tinh thần vẫn còn ray rứt của cuộc đời binh nghiệp và chính trị" và sau nhiều cơn bạo bệnh thể xác , ông Liễu không còn đi lại bình thường được nữa. Người bạn gần gũi và thân thiết nhất bây giờ của ông không phải là hàng hà sa số bạn hữu ở khắp bốn phương trời thế giới mà là "chiếc xe lăn" vô tri vô giác ngày đêm đang gắn bó với ông!
Nhưng giọng nói của "ông già 75 tuổi" Phạm Văn Liễu bây giờ vẫn còn là của Đại tá Phạm Văn Liễu trên 40 tuổi khi xưa đứng trước hàng quân hay mỗi khi nói chuyện với các Sỹ quan và nhân viên ngành Cảnh sát VNCH. Giọng ông tuy không còn hùng dũng, sang sảng như ngày còn nắm binh quyền nhưng bộ óc minh mẫn và lối nói chuyện hấp dẫn của Tác giả "Trả Ta Sông Núi" vẫn còn đấy.
Ông Liễu đã chứng minh điều này trong buổi ra mắt hai tập Hồi ký của mình ở Trường Lụât, Đại học George Mason hôm 5-10 (2003) vừa qua. Mặc dù phải bó thân trong chiếc xe lăn chật hẹp nhưng ông đã nói không ngơi nghỉ hơn một tiếng đồng hồ và còn muốn nói nhiều nữa về những diễn biến lịch sử xung quanh lý do tại sao ông viết hồi ký và trả lời những câu hỏi của cử tọa.
Ông Liễu bảo ông viết hồi ký không phải để khoe tên tuổi hay đề cao cá nhân mà để "Viết lại những lỗi lầm đời mình dài theo dòng lịch sử quốc dân làm món quà cho những người bạn trẻ."
Ông viết trong lời mở đầu Tập I:" Cổ nhân dạy:Dẵm lên sương sớm, nhớ tới muà Đông. Biết đâu, những kinh nghịêm máu và nước mắt đời tôi chẳng giúp vài ba bạn trẻ hằng tâm với đất nước nào đó tránh được những vết xe đổ của người đi trước" Đó là tâm nguỵên duy nhất của người viết."
Ông Liễu có được mãn nguyện hay không thì chỉ có thời gian mới trả lời được. Nhưng những vinh nhục của người lính chiến đấu và người lính cách mạng Phạm Văn Liễu từ năm 1945 cho đến bây giờ vẫn còn nguyên đó. Nó bám lấy ông như hình với bóng để cùng lớn lên với những vết nhăn trên khuôn mặt khắc khổ của một người lính dường như chưa bao giờ biết mỏi mệt.
Ông tự ví mình là người "lúc nào cũng chỉ biết đội trời" nhưng ông đã "vá" được gì chưa thì tôi thiết tưởng Tác giả "Trả Ta Sông Núi" là người biết rõ mình hơn ai hết.
Ông Phạm Văn Liễu có muốn quên đi những vinh nhục của đời mình cũng chẳng dễ gì vì ông là một nhân vật lịch sử. -/-
Phạm Trần
(10-2003)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Từ thế kỷ thứ ba trước Tây lịch, Triết gia Mạnh Tử (372-289 BC) của Trung Hoa đã nói rằng, “Dân là quý, thứ đến đất nước, rồi tới vua.” Điều đáng nói là Mạnh Tử là người đi theo học thuyết của Nho Gia vốn chủ trương vua là con ông Trời (Thiên tử) được sai xuống nhân gian để trị quốc an dân, vậy mà cũng không thể phủ nhận vai trò quan trọng, nếu không muốn nói là tối quan trọng của người dân. Thời hiện đại, công pháp quốc tế đã nêu ba yếu tố chính hình thành một quốc gia: người dân, lãnh thổ và chính quyền. Trong đó, thật ra người dân chính là yếu tố then chốt quyết định. Lãnh thổ nếu không có dân ở, không có người quản trị thì không phải là đất nước của một dân tộc. Chính quyền từ người dân mà ra, bởi vì trước khi một người ra nắm quyền cai trị đất nước thì người đó phải là một người dân của đất nước ấy. Hơn nữa, sự thịnh suy của một quốc gia nằm trong tay người dân.
“Phản động lực” mà người Đài Loan thể hiện trong cuộc bầu cử tổng thống vừa rồi khiến tôi, sau những suy nghĩ miên man về chuyện nước non, lại quay về với bài học yêu nước của thời tiểu học với câu hỏi khó, khiến nhiều học trò gác bút: “Em hãy tìm từ phản nghĩa với ‘tôn đại’.” Trung Quốc càng hung hăng đe dọa bao nhiêu, Đài Loan càng quật cường ngạo nghễ bấy nhiêu. Mà nếu Bắc Kinh ngu ngơ hay vờ vịt không biết gì đến định luật này thì, thầy nào tớ đó, Hà Nội cũng mù tịt hay giả bộ tương tự. Họặc mù tịt như thể đã hoàn toàn miễn dịch trước luật này; hoặc đóng kịch như thể không hề sống trong không gian ba chiều bình thường mà là một môi trường nào đó thiêu thiếu, cơ hồ chỉ… hai chiều rưỡi.
Tôi sinh trưởng ở Đà Lạt (Thành Phố Ngàn Hoa) nên sự hiểu biết về hoa lá cũng không đến nỗi tồi. Thế mà mãi tới bữa rồi, nhờ xem trang Trăm Hoa, mới được biết thêm về một loài hoa nữa – hoa ban: “Mùa hoa nở là lúc các cặp đôi nô nức đến thăm Tây Bắc. Hoa ban trắng tượng trưng cho tình yêu chung thủy và sự chân thành, dù tình yêu có gặp nhiều trắc trở, khó khăn thì cũng tự tin vượt qua và sẵn sàng đi đến bến bờ hạnh phúc. Các cặp đôi yêu nhau thường thề nguyện dưới gốc cây hoa ban như một minh chứng cho tình yêu thủy chung, bền chặt.”
Nhìn vào sự xuất hiện, sinh trưởng và tồn tại của chế độ cộng sản ở Việt Nam, chúng ta không thể phủ nhận đã có sự tương đồng với những thông tin tóm lược vừa nói về bệnh ung thư của con người...
Tôi tình cờ nhìn thấy hình Nguyễn Thúy Hạnh đang lơn tơn đẩy một cái xe cút kít đầy ắp bưởi (trên trang RFA) trong một cuộc phỏng vấn do Tuấn Khanh thực hiện, vào hôm 19 tháng Giêng năm 2021. Bên dưới tấm ảnh này không có lời ghi chú nào về thời điểm bấm máy nên tôi đoán có lẽ đây là lúc mà cô em đang hớn hở đến thăm vườn bưởi của họ Trịnh (ở Hòa Bình) vào “thuở trời đất (chưa) nổi cơn gió bụi”!
Tổng Bí thư đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng đang phải đối mặt với cuộc tranh chấp nội bộ trong kế hoạch tìm người kế nhiệm lãnh đạo khóa đảng XIV, nhiệm kỳ 2026-31. Những tranh chấp này được giữ kín để tránh hoang mang nội bộ. Chúng bộc phát ngay tại các Đại hội đảng địa phương và các ban đảng từ tháng 10 năm 2023...
Cuộc bầu cử tổng thống lần thứ 8 tại Đài Loan đã được tổ chức vào ngày 13/1 với kết quả là ông Lại Thành Đức Phó chủ tịch Đảng Dân tiến (Democratic Progressive Party, DPP) thắng cử...
Chúng ta đang làm nhân chứng cho một cuộc bầu cử kỳ quặc và đa sự chưa từng xảy ra trong lịch sử đầu phiếu ở Hoa Kỳ. Có thể nói, không chỉ lịch sử, mà rộng lớn hơn, chính là "sự cố" văn hóa chưa từng thấy. Bước vào năm 2024, sự tranh đua giữa hai đảng Cộng Hòa và Dân Chủ càng gay go, khốc liệt với âm mưu, độc kế, thủ đoạn, ám toán, bôi nhọ, mánh mung, để xem ai sẽ là chủ nhân của ngôi Nhà Trắng trong bốn năm tới. Tất cả những ý nghĩ, hành vi đó đều gôm vào chính sách, chiến lược và chiến thuật vận động bầu cử. Bạn đọc sẽ có dịp theo dõi các thầy bàn người Mỹ và thầy bàn người Việt (trong và ngoài nước) phong phú hóa, hư cấu hóa, ảo tưởng hóa về việc bầu cử, tạo ra câu chuyện nửa thực, nửa hư, thú vị, bất ngờ với giận dữ và thất vọng, sung sướng và buồn bã, rung đùi và cụng ly, nguyền rủa và chửi bới, vân vân. Thông thường những luận lý, âm mưu, phê phán, dự đoán đó… được mổ xẻ qua kiến thức và kinh nghiệm tây phương, nơi có hàng ngàn sách vở nghiên cứu chính trường, chính đạo,
Chúng ta đang bước vào năm bầu cử. Năm 2024 sẽ có một cuộc bầu cử có tính quyết liệt, vì các lựa chọn chắc chắn sẽ gây tranh cãi trong nội bộ cộng đồng gốc Việt, trong các gia đình người Việt, giữa các lựa chọn về cấp tiến và bảo thủ, giữa các thế hệ trẻ và già ở hải ngoại. Và chắc chắn là bầu cử tháng 11/2024 tại Hoa Kỳ sẽ ảnh hưởng tới cuộc chiến Trung Đông, cuộc chiến ở Ukraine, và ở cả Đài Loan. Tác động như thế nào, chúng ta khó đo lường hết tất cả các ảnh hưởng. Trong đó, một tác động lớn là từ tin giả, nói kiểu Mỹ là Fake News, tức là tin không thật.
Tôi rất thích khoa nhân chủng nhưng không có cơ may đến trường để được truyền thụ một cách bài bản về ngành học thú vị này. Hoàn cảnh sống, nói nào ngay, cũng không mấy thích hợp cho nhu cầu tự học. Suốt ngày (và suốt đời) tôi chỉ loanh quanh hàng quán nơi mà những kẻ hay lê la thường nói rất nhiều, dù sự hiểu biết của họ vốn không được bao nhiêu. Ngoài giới hạn về kiến thức, mấy ông bạn đồng ẩm còn có cái tật rất hay tranh cãi (và luôn cãi chầy cãi cối) nên mọi thông tin, từ bàn nhậu, đều không được khả xác hay khả tín gì cho lắm.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.