Hôm nay,  

Vì Sao Thất Nghiệp Cao?

31/07/201000:00:00(Xem: 9471)

Vì Sao Thất Nghiệp Cao"

Nguyễn Xuân Nghĩa

...y tế, gia cư làm chậm nhịp tuyển dụng khi kinh tế đã đụng đáy từ một năm trước...
 
Nạn thất nghiệp quá cao đang ảnh hưởng đến cuộc bầu cử tại Hoa Kỳ. Nhưng vì sao lại quá cao như vậy" Bỉnh bút Nguyễn Xuân Nghĩa, một chuyên gia kinh tế, đề nghị một số lý giải trong bài phân tách sau đây...  
Khi còn tranh cử tổng thống, Nghị sĩ Barack Obama đã hứa hẹn tạo thêm hai triệu rưởi việc làm trong vòng hai năm nếu ông đắc cử. Sau khi đắc cử ông nâng mức hứa hẹn lên ba triệu việc làm, rồi ba triệu rưởi. Thậm chí bốn triệu nếu kế hoạch kích thích kinh tế của ông sớm được Quốc hội phê chuẩn.
Kế hoạch kích thích trị giá 787 tỷ đô la đã được phê chuẩn - và cuối cùng lên đến 865 tỷ - mà thất nghiệp không giảm, vẫn tăng và mấp mé từ 9,5 đến 10% lực lượng lao động. Nếu so sánh với chỉ tiêu đã được Tổng thống đề ra thì coi như hụt mất bảy triệu rưởi việc làm! Không chỉ có dân thất nghiệp mà chính ông Obama cũng phải thất vọng về khả năng dự báo của ông...
Nhìn cách khác, kinh tế Mỹ bị suy trầm từ tháng 12 năm 2007 và coi như "đụng đáy" vào Tháng Sáu năm ngoái trước khi hồi phục rất chậm và đầy bất trắc trong suốt năm qua - và còn có thể đụng đáy lần nữa, là lại suy trầm từ cuối năm nay. Trong giai đoạn ấy, thất nghiệp tăng vọt từ 4,9% vào cuối năm 2007 lên tới hơn 10% vào cuối năm ngoái và giảm rất chậm. Nạn thất nghiệp tất nhiên ảnh hưởng đến cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ vào ngày hai Tháng 11 tới đây.
Nhưng vì sao Hoa Kỳ bị thất nghiệp cao và dù kinh tế có hồi phục, mức thất nghiệp vẫn chưa giảm" Chúng ta cần phân tách nguyên nhân xa gần để thấy ra sự ngoa ngụy của các chính trị gia.
***
Hãy nhớ lại chuyện xa xưa mà nói lại cũng không thừa.
Vào thời lập quốc hơn 200 năm trước, đại đa số lực lượng lao động Hoa Kỳ đều làm việc trong khu vực canh nông để kiếm cho đủ ăn. Thế rồi với tiến bộ khoa học kỹ thuật, giới lao động trong các ngành nông, lâm, ngư và súc sản nay chỉ còn khoảng 0,5% lực lượng lao động: phân nửa một phần trăm thôi. Khi ấy, nông gia không mất việc mà tiến vào khu vực chế biến nhờ Cách mạng Kỹ nghệ. Bây giờ, khoa học kỹ thuật tiếp tục cải tiến nên cùng một yêu cầu sản xuất người ta cần ít lao động hơn, tức là năng suất có tăng. Mà các xứ khác trên thế giới cũng đã công nghiệp hóa nên có thể nhận lãnh công việc chế biến ấy với giá rẻ hơn. Kết quả tổng hợp là hiện tượng toàn cầu hoá giúp doanh nghiệp Mỹ đầu tư vào những nơi có mức lương rẻ hơn, nên thành phần lao động trong khu vực chế biến tại Hoa Kỳ mới giảm dần. Nhưng, giới lao động trong khu vực ấy không chạy theo công việc làm ra ngoài, hoặc ngồi ở nhà để chịu thất nghiệp. Họ tìm việc làm trong khu vực dịch vụ, ngày nay đã chiếm tới gần 80% của nền kinh tế. Cho nên thay đổi về cơ cấu sản xuất dẫn tới sự chuyển dịch lao động từ canh nông qua công nghiệp rồi dịch vụ.
Khi phàn nàn về sự sa sút của khu vực chế biến, các chính trị gia đã không hiểu gì và còn lừa mị người dân bằng cách kết án giới đầu tư đã "xuất cảng việc làm" khiến dân Mỹ thất nghiệp. Cũng hàm hồ như lý luận kinh tế của Karl Marx.
Bây giờ đến chuyện gần.
Từ gần hai chục năm nay, cuộc Cách mạng Tín học lại một lần nữa đảo lộn cơ cấu sản xuất và tác động mạnh vào các ngành nghề trong khu vực dịch vụ, vốn đòi hỏi trình độ kỹ thuật cao hơn. Khi kinh tế bị suy trầm, như trong các năm 90-91 rồi 2001 và 2008-2009, doanh nghiệp phải thải bớt người, chủ yếu trong khu vực dịch vụ. Nhân cơ hội đó, họ nâng cao năng suất và cải tổ luôn hệ thống sản xuất nhờ tiến trình tự động hoá với kỹ thuật điện toán và thông tin điện tử. Vì việc cải tổ ấy, khi kinh tế hồi phục, doanh nghiệp lại tuyển ít người hơn trước - gọi đó là "tăng năng suất" - nên ta mới gặp hiện tượng thất nghiệp cao khi kinh tế đã hồi phục (jobless recovery).
Hiện tượng này đã thấy rõ nhất sau vụ suy trầm 2001 và khi ấy đảng Dân chủ coi đó là tội của ông Bush!
Một nguyên nhân thứ ba nữa là tâm lý bất an.
Ta không quên là sau hơn sáu năm tăng trưởng liên tục và ngay giữa một chu kỳ suy trầm khởi sư từ cuối năm 2007, Hoa Kỳ lại bị một vụ khủng hoảng tài chính bùng nổ ngay giữa một năm có tổng tuyển cử. Khủng hoảng giữa suy trầm trong không khí tranh cử có góp phần gây thêm hốt hoảng vì những báo động liên tục và đầy bi quan của các chính trị gia nhằm hốt phiếu người nhẹ dạ. 
Tâm lý bất an dễ hiểu của thị trường, kể cả các doanh nghiệp và giới tiêu thụ, lại bị chìm trong một chuỗi dài các kế hoạch vừa kích thích kinh tế vừa cải tạo xã hội của Chính quyền mới đắc cử trong cả Hành pháp lẫn Lập pháp. Kết quả là nỗi ưu lo của mọi người về tương lai trước mặt, với nạn bội chi ngân sách quá cao, gánh nặng công trái cũng sẽ là kỷ lục trong suốt 10 năm tới và gánh nặng thuế khóa cũng sẽ tăng sau khi các biện pháp giảm thuế của ông Bush năm 2001 và 2003 sẽ mãn hạn.


Vì vậy, dòng tín dụng vẫn nghẹn, tư doanh chưa tuyển thêm người và còn lo rằng kinh tế hồi phục yếu ớt có thể lại bị suy trầm nữa, là chuyện có thể xảy ra với xác suất ngày một cao hơn. Hôm Thứ Tư 21 vừa rồi, Thống đốc hệ thống Ngân hàng Trung ương Hoa Kỳ cũng phát biểu là đà hồi phục của kinh tế Mỹ gặp "bất trắc bất ngờ". Ngần ấy lý do khiến giới kinh tế dự đoán là phải mất nhiều năm nữa thì mức thất nghiệp mới trở lại tỷ lệ dưới 5% như đã thấy trước kỳ suy trầm vào cuối năm 2007.
Nghĩ lại thì sau bảy lần suy trầm trước đây, sau khi kinh tế hồi phục là năm đầu tiên là tạo thêm 2,3% công việc làm mới trong tư doanh và ngoài nông nghiệp (chế biến và dịch vụ). Lần này thì coi như là 0%. Vì sao các doanh nghiệp lại ngần ngại tuyển dụng như vậy"
Khi ấy, ta phải nhìn vào một số trở ngại chuyên môn rất phức tạp khác.
Ngoài tâm lý bất an trước và sau bầu cử và sự chuyển dịch cơ cấu lao động trong dài hạn, ta còn thấy các lý do thuộc về cơ cấu thất nghiệp: 1) tỷ lệ mất việc tăng mạnh trong thành phần gọi là thất nghiệp thường trực - không chỉ bị sa thải rồi tái tuyển dụng nếu kinh tế phục hoạt; và 2) còn mạnh hơn nữa trong thành phần đã thất nghiệp từ hơn nửa năm (27 tuần). Thành phần thứ hai này hiện lên tới gần bảy triệu người, chiếm hơn 45% của lực lượng thất nghiệp. Nguyên nhân của tình trạng bất thường đó là chi phí bảo dưỡng y tế quá cao. Doanh nghiệp tuyển dụng phải thanh toán cả phúc lợi y tế lẫn bồi thường khi sa thải nên ngại thuê người vào chính ngạch mà tìm cách trả theo lương giờ và thuê người bán thời.
Ngoài chuyện phúc lợi y tế, trở ngại thứ hai là xã hội Hoa Kỳ thay đổi quá nhanh về kỹ thuật sản xuất nên doanh nghiệp thiếu người có khả năng thích hợp. Có muốn tuyển cũng tìm không ra. Cũng lạ!
Nhưng nếu có tìm cho ra người cũng chưa chắc đã tuyển được vì... khủng hoảng gia cư:
Ngày xưa, người Mỹ thường bán nhà đi qua nơi có việc làm và mua nhà mới ở gần hãng xưởng; ngày nay, việc dời đổi dễ dàng như vậy đã hết. Bán nhà cho ai và có bán được thì vay tiền cũng rất khó để mua nhà mới. Các chính khách ưa múa huê dạng về các vấn đề tăng chi hay giảm thuế để kích thích kinh tế và cấp cứu người mất nhà lẫn chấn chỉnh hệ thống tài chánh ngân hàng mà không nhìn ra mối liên hệ giữa an cư và lạc nghiệp. Dân Mỹ bị bó chân trong thất nghiệp dù biết rằng bên kia sông là ánh mặt trời - và công việc làm.
Chính là mối tương quan nhân quả giữa y tế, gia cư với thất nghiệp mới làm chậm nhịp tuyển dụng khi kinh tế đã đụng đáy từ một năm trước. Và sự lo ngại của doanh nghiệp và thị trường về hậu quả kinh tế của chánh cách cải tạo xã hội đang làm nốt phần vụ còn lại.
Kết luận thì Chính quyền Hoa Kỳ lặng lẽ làm một cuộc cách mạng được ém trong hàng loạt những đạo luật cải tổ chế độ bảo dưỡng y tế, cải tổ hệ thống tài chánh ngân hàng, gia tăng vai trò của nhà nước trong sinh hoạt kinh tế, tăng chi và tăng thuế, rồi cải cách giáo dục, môi sinh, năng lượng, v.v... Chưa ai tính ra những phí tổn vĩ đại của cuộc cách mạng, nhưng mọi người đều biết là mình sẽ phải trả và càng có tiền thì trả càng nhiều vì chủ trương xã hội của chính quyền.
Khi biết là sẽ còn mất tiền nữa và bị kiểm soát chặt chẽ hơn - dưới dạng này hay dạng khác - mọi người đều trì hoãn: hoãn đầu tư và tuyển người, hoãn cho vay hay mua nhà, hoãn chi tiêu... Tình trạng bất trắc chung do những quyết định chính trị cũng là yếu tố kéo dài nạn thất nghiệp cao.
***
Từ hai năm nay - trước và sau khi đắc cử - ban tham mưu kinh tế của ông Obama liên tục đoán nhầm. Nguyên nhân chính có thể là tâm lý bất an của thị trường, như vừa trình bày ở trên.
Khi ông Obama đắc cử, lực lượng lao động tại Mỹ có được 135 triệu việc làm, với tỷ lệ thất nghiệp là 7%. Khi ấy, Chính quyền của ông đặt ra chỉ tiêu là tạo thêm chừng ba triệu rưởi việc làm tính đến cuối năm nay, tức là nâng lực lượng lao động lên mức 138 triệu sáu, chủ yếu là trong lãnh vực tư doanh. Bây giờ, lực lượng lao động thực tế chỉ còn 131 triệu việc làm, hụt mất hơn bảy triệu rưởi, và tư doanh không thể tạo thêm việc làm như mong muốn. Đã thế, đà gia tăng dân số bình thường khiến hàng năm kinh tế phải tạo thêm chừng một triệu 300.000 công việc làm thì mới giữ tỷ lệ thất nghiệp ở mức cũ. Nói cho dễ nhớ thì trung bình phải hơn 10 vạn việc làm một tháng.
Nhìn vậy ta thấy ra mức độ nan giải của bài toán. Điều ấy cũng phần nào giải thích vì sao tỷ lệ ủng hộ Tổng thống Obama sa sút rất nhanh, từ hơn 70% nay chỉ còn gần 46% và tỷ lệ bất mãn của dân chúng về Quốc hội trong tay đảng Dân Chủ đã vượt 71%!
Khu cầu khách quan hiện nay là cần khai thông ách tắc hành chánh, chấm dứt đả kích doanh giới theo lý luận đấu tranh giai cấp để lấy lòng dân nghèo, tiết giảm công chi và đẩy lui mối lo thuế khoá nhằm khuyến khích đầu tư và sản xuất. Những biện pháp ấy mới trấn an thị trường và nâng đà tăng trưởng hầu sớm tạo thêm việc làm. Khi kinh tế đã hồi phục, thất nghiệp giảm, may ra người dân sẽ hết e ngại mà chấp nhận những chương trình "cải tạo xã hội" - theo kiểu Hà Nội - mà ông Obama muốn tiến hành.
Nếu không cấp bách giải quyết những ưu tiên đó, Obama sẽ thất bại trên cả hai mặt là kích thích sản xuất và cải tạo xã hội.
Và chính ông sẽ thất nghiệp.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Trong tháng Hai vừa qua, cái chết đau thương, lẫm liệt của nhà đối kháng người Nga Alexei Navalny trong tù đã gây sầu thảm, phẫn nộ cho toàn cộng đồng tiến bộ nhân loại. Đối với người Việt Nam tiến bộ, nỗi đau lại càng sâu thêm khi trong ngày cuối cùng của tháng Hai, ngày 29, nhà cầm quyền độc tài Hà Nội bắt đi cùng lúc hai nhà đấu tranh kiên cường...
Ít lâu nay, vấn đề “bảo vệ an ninh quốc gia” được nói nhiều ở Việt Nam, nhưng có phải vì tổ quốc lâm nguy, hay đảng muốn được bảo vệ để tồn tại?
Xuất hiện gần đây trong chiến dịch tranh cử tổng thống, Donald Trump, ứng cử viên đảng Cộng hòa, đã lên tiếng đe dọa là sẽ không bảo vệ cho các đồng minh thuộc khối NATO trong trường hợp bị Nga tấn công. Ý kiến này đã dấy lên một cuộc tranh luận sôi nổi tại châu Âu, vì có liên quan đến việc răn đe Nga và ba kịch bản chính được đề cập đến khi Donald Trump trở lại Nhà Trắng vào năm 2025 là liệu Liên Âu có nên trang bị vũ khí hạt nhân chăng, Pháp có thể tích cực tham gia không và Đức nên có tác động nào.
Tôi không biết chính xác là Văn Trí đã đặt chân đến Đà Lạt tự lúc nào nhưng cứ theo như ca từ trong nhạc phẩm Hoài Thu của ông thì Cao Nguyên Lâm Viên ngày ấy vẫn hoang vu lắm. Ngoài “núi rừng thâm xuyên”, với “lá vàng rơi đầy miên man”, cùng “bầy nai ngơ ngác” (bên “hồ thu xanh biếc”) thì dường như không còn chi khác nữa! Từ Sài Gòn, khi tôi được bố mẹ “bế” lên thành phố vắng vẻ và mù sương này (vào khoảng giữa thập niên 1950) thì Đà Lạt đã bị đô thị hóa ít nhiều. Nơi đây không còn những “bầy nai ngơ ngác” nữa. Voi, cọp, heo rừng, beo, báo, gấu, khỉ, vượn, nhím, mển, gà rừng, công, trĩ, hươu, nai, trăn, rắn, sóc, cáo, chồn… cũng đều đã biệt tăm. Người Thượng cũng ở cách xa, nơi miền sơn cước.
Vi hiến có nghĩa là “vi phạm” hay đi ngược lại những gì Hiến Pháp (HP) quy định. HP không có gì là cao siêu hay quá bí ẩn. Hiến Pháp trong bản chất chỉ là một bộ luật. Sự khác biệt chỉ là: HP là một bộ luật nền tảng hay nôm na là “luật mẹ”. Không những không cá nhân hay hữu thể pháp lý nào trong xã hội, kể cả hành pháp (tức chính phủ) được quyền vi phạm HP, mà không một luật pháp nào của lập pháp (tức quốc hội) được quyền vi phạm HP cả...
Đảng Cộng sản Việt Nam sẽ tiếp tục đi theo đường mòn Chủ nghĩa đã lu mờ trong thưc tế và thất bại trong hành động tại Đại hội đảng kỳ 14 vào tháng 1 năm 2026. Khẳng định này của ông Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư đảng là bằng chứng cho tính chai lỳ, chậm tiến và lạc hậu, không phải của riêng ông mà toàn đảng...
Thứ Bảy 24/2/2024 đánh dấu hai năm kể từ khi Nga phát động cuộc chiến tranh xâm lược toàn diện nước Ukraine. Cuộc xung đột đang lâm vào tình trạng bế tắc và ngày càng tàn khốc. Nhân dịp này ông Nick Schifrin, một phát thanh viên của kênh truyền hình PBS, đã tổ chức một buổi thảo luận bàn tròn về hiện tình của cuộc chiến, nó có thể đi đến đâu và chính sách của Hoa Kỳ đối với Ukraine sẽ ra sao. Hiện diện trong buổi thảo luận có các ông Michael Kofman, John Mearsheimer và bà Rebeccah Heinrichs...
Đôi lời từ tác giả: “Sẽ có nhiều người không thích bài viết này. Họ sẽ cảm thấy bị công kích và rằng thật bất công. Phản ứng càng mạnh mẽ càng cho thấy nỗi sợ hãi về chủng tộc đã cắm rễ sâu vào nền chính trị Hoa Kỳ, và sẽ tồn tại mãi.” Tầm quan trọng của vấn đề chủng tộc trong nền chính trị của chúng ta được thể hiện rõ ràng qua chiến dịch tranh cử tổng thống hiện tại. Khẩu hiệu (slogan) đình đám nhất là từ chiến dịch tranh cử của Donald Trump: “MAGA” – Make America Great Again (Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại). Ý của slogan này là Hoa Kỳ đã từng rất vĩ đại, nhưng đã và đang đánh mất hào quang của mình.
Sau 11 năm chống Tham nhũng (2013-2024) nhưng Tham nhũng cứ trơ ra cười vào mũi Đảng là tại sao?
Thời gian gần đây, những người thương vay khóc mướn ở Việt Nam thường đem vấn đề Chủ nghĩa Xã hội và đảng có quyền một mình lãnh đạo ra hù họa dư luận. Tuy nhiên, càng vênh váo và cù nhầy bao nhiêu lại càng lâm vào thế bí. Những bài viết không trả lời được câu hỏi: Ai đã trao quyền lãnh đạo cho Đảng, và tại sao Đảng sợ Dân chủ đến thế?
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.