Những Bài Học Thật Sự Cho A Phú Hãn Từ Việt Nam
Ls Nguyễn Quang Trung phỏng dịch
(Bài đăng trên báo Wall Street Journal ngày 11 tháng 9 năm 2009. Tác giả, Lewis Sorley, là một nhà sử học và cựu Trung Tá Lục quân Hoa Kỳ.)
Hơn 30 năm đã trôi qua từ khi quân Bắc Việt vi phạm Hiệp Định Paris ký năm 1973 tấn công và chiếm đoạt miền Nam Việt Nam. Kết quả này là do sự cung cấp quân cụ mạnh mẽ của cho miền Bắc từ các nước cộng sản. Đó cũng là kết quả khi Hoa kỳ đã không giữ lời hứa giúp đỡ miền Nam.
Những lời hứa hẹn giúp đỡ này gồm có việc giữ vững ủng hộ tài chánh, thay đổi các quân cụ, và dùng sức mạnh không quân để giúp miền Nam trong trường hợp miền Bắc tấn công. Việc thất tín này là từ một Quốc hội Hoa Kỳ vì đã mỏi mệt qua một thời gian dài liên hệ với cuộc chiến Đông Nam Á, và cũng không thèm để ý đến sự hy sinh của chính quân lực nhà hay của nhân dân miền Nam Việt Nam.
Từ đó, bất cứ khi nào Hoa kỳ bước vào một cuộc chiến hay suy nghĩ để tham dự, những gì đã xẩy ra tại Việt Nam đều được đề cập đến. Rất là hợp hoàn cảnh để những kinh nghiệm chiến tranh được mang ra học hỏi xem có rút tỉa gì thêm không. Nhưng cũng rất hệ trọng là những cuộc tham chiến này cần phải hiểu chín chắn trước khi có một sự so sánh đúng mức. Khi đề cập đến chiến tranh Việt Nam, phần lớn những lời bình luận thường không đúng hay sai lạc làm cản đi việc hiểu rõ sự xung đột này hay kết quả của nó.
Tất cả các sách vở viết về chiến tranh Việt Nam của Stanley Karnow, Neil Sheehan, George Herring thường chú ý vào thời gian ban đầu khi Hoa kỳ tham chiến lúc Đại Tướng William C. Westmoreland còn cầm đầu quân đội. Từ đó, những người nhìn toàn thể chiến tranh Việt Nam ít hay nhiều rất cục bộ và tất cả các lời phê bình chỉ trích thừờng tập trung cho những năm đầu này, và quên đi những gì xẩy ra khi Đại Tướng Creighton Abrams cầm đầu quân đội sau cuộc Tổng Công Kích năm 1968.
Ông William Colby, người đứng đầu việc ủng hộ của Hoa kỳ cho chính sách hoà bình hoá miền Nam Việt Nam (sau này trở thành Giám Đốc cơ quan tình báo CIA) đã một lần lên tiếng các phê bình chỉ trích nêu trên giống như người Hoa kỳ hiểu về Đệ nhị thế chiến chấm dứt tại chiến trường Stalingrad, cuộc tấn công miền Bắc Phi Châu và đảo Guadalcanal (ý nói là quá giới hạn).
Bây giờ chúng ta mới biết, đáng ra nên biết, tất cả gần như thay đổi khi Tướng Abrams cầm quyền. Sự thay đổi này là do sự hiểu biết của Tướng Abrams về tình hình chiến tranh, và sự cương quyết gia tăng khả năng của quân đội miền Nam Việt Nam và loại bỏ những hạ tầng cơ sở nằm vùng của quân địch tại nông thôn có cùng một nhu cầu cần thiết như đánh giặc. Ngay cả các cách tham chiến cũng thay đổi rất nhiều.
Tướng Westmoreland đã tập trung việc gia tăng quân số Hoa kỳ (có lúc lên đến 543,400 quân vào năm 1969 theo sau nhiều lần yêu cầu) bổ xung tham gia chiến trường để dùng vào các chiến dịch lùng bắt gọi là "kiếm và diệt". Việc lượng định kết quả dựa vào con số quân địch tử trận là do từ sự suy nghĩ của Tướng Westmoreland nếu quân Bắc Việt và Việt Cộng chết nhiều quá họ sẽ tự ngưng tấn công miền Nam.
Tướng Westmoreland trong 4 năm trời cầm quân đã gây ra tử vong cho quân địch rất khiếp sợ. Nhưng miền Bắc Việt Nam đã không ngừng gửi càng ngày càng nhiều quân vào chiến trường. Tướng Westmoreland đã hoàn toàn không để ý đến việc tối quan trọng là tăng khả năng của quân đội miền Nam và ủng hộ chương trình hoà bình hoá, nhất là các chiến dịch dứt bỏ các hạ tầng cơ sở nằm vùng đã gây kinh hoàng và áp đặt cầm quyền lên người dân nông thôn.
"Hoà bình hoá làm ông Westmoreland chán nản" theo như lời Tướng Phillip Davidson, vị sĩ quan tình báo cao cấp của tướng Westmoreland cho biết. Chính vì thế các hạ tầng cơ sở nằm vùng của quân địch vẫn tiếp tục nắm giữ được quyền hành tại nông thôn. Trong khi đó, quân đội miền Nam Việt Nam tiếp tục bi thiếu thốn súng ống hơn quân địch lại phải giữ thêm vai trò về an ninh của đất nước họ (khi đó, quân đội Hoa kỳ đã có dư súng ống vẫn được ưu tiên thay đổi như súng M-16 chẳng hạn).
Những năm sau, Tướng Abrams cùng với Đại sứ Ellsworth Bunker và ông William E. Colby đã bầy ra một phương cách khả thi để điều hành chiến tranh khi quân đội Hoa kỳ bắt đầu rút quân.
An ninh cho miền Nam Việt Nam trở thành cách định lượng kết quả. Thay vì "kiếm và diệt", các chiến dịch nay tập trung chủ tâm vào "càn quét và giữ đất". Địa phương quân được tăng cường, huấn luyện và bổ xung súng ống để tham gia vào quân đội giúp giữ đất đai thêm.
Tướng Abrams, Đại sứ Bunker và ông Colby xem Tổng Thống miền Nam Việt Nam Nguyễn Văn Thiệu là "vị 'Việt Nam hóa' số 1." Đi ngược lại lời của các cố vấn mình là không nên giao súng ống cho người dân, ông Thiệu đã có những bước đi dũng cảm bằng cách tạo ra chương trình Nhân Dân Tự Vệ để giúp quân đội phòng thủ địa phương gìn giữ tỉnh lỵ của họ. Theo như cái nhìn của ông Thiệu và cũng theo như kết quả cho thấy thì "chính quyền phải dựa vào những ủng hộ của người dân, và không đúng nếu không dám giao súng ống cho họ để phòng thủ địa phương." Kết quả tối hậu là có 4 triệu người dân đã gia nhập vào chương trình Nhân Dân Tự Vệ.
Ông Thiệu cũng tạo ra chương trình "đất cho người đi cày", đây là lần đầu tiên có một sự thay đổi đất đai thật sự đến nông dân miền Nam Việt Nam. Đến cuối năm 1972, hơn 400,000 nông dân làm chủ đất của 2,500,000 mẫu đất. Làm công không đã bị diệt bỏ.
Tình báo khá hơn cùng với chương trình Phượng Hoàng (một chiến dịch loại bỏ hạ tầng cơ sở của quân địch) dần dần đã điểm mặt và diệt đi các hạ tầng cơ sở nằm vùng của địch. Phần lớn bị bắt tù hay ủng hộ chính quyền miền Nam, và cung cấp rất nhiều tin tức tình báo quý báu sau các cuộc lùng bắt như vậy.
Khi cuộc Đông Tiến của địch vào năm 1972 thì gần như hầu hết quân đội Lục quân Hoa kỳ đã rút lui. Với sự giúp đỡ bằng sức mạnh không quân của Hoa kỳ, quân đội miền Nam Việt Nam đã anh dũng đẩy lui cuộc tấn công của miền Bắc với số lượng quân tương đương với 20 sư đoàn, hay khoảng 200,000 lính.
Những kẻ chỉ trích thì cho là sự thành công này là nhờ vào sức mạnh không quân Hoa kỳ. Tướng Abrams không chấp nhận những lời phê bình này. "Người miền Nam Việt Nam phải đứng và đánh trả lại," ông nói nếu họ không làm như vậy "thì dù có mười lần sức mạnh không quân Hoa kỳ cũng không thể nào cản bước quân địch."
Khi quân đội Hoa kỳ rút khỏi miền Nam Việt Nam vào tháng 3 năm 1973 theo như Hiệp Định Paris, miền Nam Việt Nam đã có một chính quyền vững vàng và một quân đội trong tư thế tự lo để chống lại các cuộc tấn công từ miền Bắc sau khi Hiệp Định được ký kết nếu Hoa kỳ giữ lời hứa của mình. Khi Hoa kỳ không giữ những lời hứa này, miền Nam Việt Nam bị dứt điểm.
Các bài học từ quá khứ chỉ có kết quả tốt nếu chúng ta hiểu được quá khứ. Đây là một điểm quan trọng đặc biệt cần để tâm đến bây giờ, khi vị Tổng Tư Lệnh, các vị cố vấn an ninh quốc gia, và các vị lãnh đạo quân đội cao cấp đang xem xét bước kế tiếp để thực thi tại A Phú Hãn. So sánh lịch sử đứng đắn về Việt Nam rất hữu ích vì nếu dựa vào sự hiểu biết sai lầm về chiến tranh Việt Nam thì quá nguy hiểm và sai lạc.