Bi Kịch Tây Tạng
Trong một thế giới đóng kịch, dân Tây Tạng lại sống rất thực...
DHARAMSALA - Ngày hôm nay, Thứ Bảy mùng 10 tháng Ba, người dân Tây Tạng có một sinh hoạt đặc biệt.
Họ kỷ niệm ngày nổi dậy của dân Tây Tạng tại thủ đô Lhasa - mùng 10 tháng Ba năm 1959 - khi Trung Quốc đưa quân từ các tỉnh miền Đông, mà họ đã chiếm đóng từ 10 năm trước, tấn công Lhasa và đặt ách cai trị từ đó cho đến nay.
Từ hôm trước, nhiều xe phóng thanh đã len lỏi trên các đường dốc của Lhasa về lễ kỷ niệm nay. Thật ra, những bích chương biểu ngữ nhắc nhở biến cố đau buồn trên đã xuất hiện từ nhiều ngày trước. Xe phóng thanh - những chiếc xe con cóc nhỏ xíu - chỉ bắc loa kêu gọi từ sau ba rưỡi chiều. Trước đó, hầu như cả thị trấn Dharamsala chỉ thấy vang vọng lời thuyết giảng của đức Đạt Lai Lạt Ma trong khoá dạy của Ngài, bắt đầu từ mùng ba.
Từ ngôi đền thờ chính, nằm đối diện với "Cung điện" của Chính phủ Lưu vong Tây Tạng và nơi nghỉ ngơi của đức Đạt Lai Lạt Ma, người Tây Tạng đã bắc loa truyền thanh bài giảng của Ngài. Nhưng, tân kỳ hơn thế, người ta còn phóng lời cầu kinh và những giải thích về Phật pháp của đức Đạt Lai Lạt Ma lên băng tần FM.
Nhà nào trong khu vực cũng có thể bật radio lên nghe và dân Ấn Độ cũng vậy, vì lời giảng được trực tiếp phiên dịch ra Anh ngữ và nhiều thứ tiếng khác.
Cho tới khi khoá giảng trong ngày kết thúc, xe phóng thanh bắt đầu xuất hiện và nhắc đến ngày 10 tháng Ba. Và tối thứ Sáu, nhiều nơi đã có chiếu phim hoặc băng hình về cuộc nổi dậy 1959, và về những vụ đàn áp khác đã xảy ra tại Tây Tạng trước sự thờ ơ của thế giới.
Thế giới loài người có biệt tài.... đóng kịch!
Từ hơn ngàn năm nay, dân Tây Tạng đã có một sự chuyển hoá... đầy lợi hại nhờ Phật giáo. Tây Tạng từ bỏ chiến tranh, và hoàn toàn mưu cầu hoà bình theo lời Phật dậy. Ấy là mặt "lợi" nhìn từ đạo pháp. Mặt "hại" là xứ này không có khả năng tự phòng vệ trước những sức mạnh vốn không coi đạo pháp là gì!
Trong lịch sử Tây Tạng, có hai đế quốc đã triệt để khai thác điều ấy và làm thế giới bị lầm lạc về Tây Tạng. Trước hết là đế quốc Anh, kế tiếp là Trung Quốc. Hai xứ này tự coi là và được thế giới tưởng như là hai quốc gia am hiểu nhất về Tây Tạng. Và họ đóng kịch rồi cho cả thế giới vô tình đóng theo cùng một vở.
Năm 1904, cách đây trăm năm, đế quốc Anh nhòm ngó Tây Tạng nhưng không muốn đế quốc Nga xía vào cuộc chơi lớn này (the "Great Game" theo các nhà địa dư chính trị học) và cũng không muốn đế quốc Mãn Thanh mất lòng. Họ trình bày cho thế giới rằng Tây Tạng là một đất phụ dung của Trung Quốc. Nhưng, về thực chất, họ biết Tây Tạng là một xứ độc lập, có chủ quyền, nên ký kết những thỏa ước riêng với Lhasa.
Vừa độc quyền khai thác quan hệ song phương với Tây Tạng, vừa cho nhà Mãn Thanh uống nước đường về một tư thế không hề có tại Lhasa, họ vừa củng cố được vị trí của mình tại Hong Kong! Chuyện thiên hạ đại thế - geopolitics - của Anh vì vậy là một hài kịch.
Trung Quốc dưới triều Đại Thanh cũng biết rõ bài bản của vở kịch hơn ai hết.
Y như Thiên triều Bắc Kinh đối với Việt Nam thời xưa, họ biết rõ Tây Tạng không phải là chư hầu, một nước phụ dung hay trực trị. Họ hưởng cái hư vị của một đại cường có ảnh hưởng mà chẳng có thẩm quyền gì về thực tế. Lý do là dân Tây Tạng luôn luôn nghĩ mình là người Tây Tạng, không hề là và không muốn là người Trung Hoa, hay thần dân của nhà Mãn Thanh.
Trước đó cũng thế, họ nhập nhằng gọi xứ này là Tây Tạng và giải thích chữ "Tạng" là tàng, là kho báu ở miền Tây - của Trung Quốc. Một kho báu họ với không tới vì ở quá xa và quá cao.
Đến khi Cộng sản Trung Hoa xuất hiện với Mao Trạch Đông, Trung Quốc trở nên thực tiễn hơn các Hoàng đế phong kiến thời xưa. Vừa chiếm được Hoa lục, Mao liền xua quân chiếm miền Đông Tây Tạng, với khẩu hiệu sau này trở thành quen thuộc: "giải phóng".
Trước là giải phóng Tây Tạng khỏi chế độ phong kiến lạc hậu, sau - năm 1959 - là giải phóng Tây Tạng khỏi sự xâm lăng của "đế quốc", dù khi đó Lhasa chỉ có chừng tám học giả hay các nhà nghiên cứu Tây phương đang tìm hiểu về xứ sở huyền bí này!
Dân Tây Tạng vốn đã từ bỏ việc đao binh từ lâu nên không thể đương cự nổi. Và từ 1959, hơn một triệu dân Tây Tạng đã được giải phóng khỏi kiếp sống. Nôm na là bị giết, bị đấu tố đến chết. Và đền đài hay kho báu Phật giáo của họ bị phá tan.
Giết người chưa đủ, họ muốn thủ tiêu luôn nền văn minh Tây Tạng và tiến hành cải tạo văn hoá, tư tưởng. Họ đưa bảy triệu người Hoa vào sống với sáu triệu Tạng dân và đang biến dân Tây Tạng thành người Hoa. Họ khai thác tài nguyên hết sức phong phú của xứ này, và từ 1987 mới "trả lại" chút đỉnh, chừng 5% theo ước tính của giới lãnh đạo Tây Tạng, bằng hệ thống cầu đường - và gọi đó là "hiện đại hóa".
Cách đây hơn nửa thế kỷ, nhân loại đã ngoảnh mặt làm ngơ khi chín triệu người Do Thái bị Đức quốc xã sát hại. Ngày nay, sáu triệu người Tây Tạng sẽ không bị đẩy vào lò hỏa thiêu - nhân loại vốn đã văn minh hơn - nhưng di sản văn hoá và tôn giáo của họ đang bị tiêu diệt. Và họ có thể bị biến chất trước sức mạnh vật chất của một đế quốc quái quỷ.
Nhìn trên toàn cảnh như vậy, người ta mới thấy ra vị trí của đức Đạt Lai Lạt Ma và vai trò của người Tây Tạng lưu vong.
Trong lễ kỷ niệm ngày hôm nay, vị lãnh đạo tinh thần Tây Tạng sẽ có một thông điệp nhắc nhở, kế tiếp là bài diễn văn của vị Thủ tướng Chính phủ Lưu vong Tây Tạng.
Còn lại, thế giới có muốn tiếp tục là đồng lõa cho vở bi kịch Tây Tạng không" Lòng tham - một thị trường đông dân nhất thế giới - và sự khiếp nhược - ai dám đụng vào cái vảy ngược của con rồng - là những cám dỗ rất lớn!
Chỉ có dân Tây Tạng là không chịu sống trong vở kịch đó. Đáng kính vô cùng!