Hôm nay,  

Lao Động Vinh Quang

17/01/200700:00:00(Xem: 7402)

Lao Động Vinh Quang

...Mỹ sẽ có nhiều luật hạn chế toàn cầu hóa, hoặc tăng cường bảo hộ mậu dịch. VN nên sớm thấy trước...

Khi Việt Nam bắt đầu bước ra sân chơi toàn cầu, nhiều người đều vui mừng nói đến triển vọng kinh tế của sự hội nhập ấy. Tuy nhiên, có một lãnh vực lại ít được chú ý, đó là lao động. Dư luận thường tin rằng nhờ giải toả kinh tế, đầu tư nước ngoài trút vào các nước nghèo như Việt Nam sẽ tạo thêm công ăn việc làm mới, nên lao động sẽ không là vấn đề. Sự thật lại rắc rối hơn thế, vì sức ép của lực lượng lao động tại các nước giàu. Diễn đàn Kinh tế đài RFA sẽ tìm hiểu hiện tượng rất phức tạp này trong phần trao đổi sau đây giữa Việt Long và kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa.

- Hỏi: Thưa ông Nguyễn Xuân Nghĩa, sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới và có quy chế mậu dịch bình thường với Hoa Kỳ, mọi người đều chờ đợi một làn sóng đầu tư nước ngoài sẽ trút vào Việt Nam để tạo thêm công ăn việc làm và nâng cao lợi tức người dân. Về phần mình, ông nhận xét ra sao về triển vọng này và thấy là người ta nên cảnh giác về những khó khăn gì ở trước mặt"

- Khó khăn lớn lao nhất, theo tôi nghĩ, lại thuộc về lãnh vực nhận thức. Thế giới đang thay đổi và Việt Nam cũng vậy, nhưng hai sự thay đổi ấy lại là sự chuyển động ngược chiều. Từ trong sông bắt đầu bơi ra biển, có khi dân mình sẽ ngạc nhiên thấy thủy triều dội ngược và đẩy mình vào bờ. Tiếp theo chương phát thanh ngày 19 tháng 12 vừa qua dưới tiêu đề “Mặt trái của toàn cầu hóa”, tôi đề nghị là ta sẽ tìm hiểu thêm về sự chuyển động ngược và kỳ này sẽ tập trung phân tích một trào lưu mới là sức ép chính trị của lực lượng lao động từ các nước công nghiệp hoá. Mình nên sớm thấy ra sức ép rất lớn này.

- Hỏi: Chúng ta sẽ bắt đầu từ đâu khi cần tìm hiểu về sức ép dội ngược này"

- Thưa là trong mọi thay đổi về phương thức sản xuất hay hình thái sinh hoạt kinh tế, ta đều thấy có thành phần thì có lợi hơn mà ngược lại cũng có thành phần bị thiệt hại và vì vậy phải chống đối. Một sự chống đối nổi tiếng là tư tưởng của Marx chống lại những bước đầu của thời kỳ công nghiệp hoá với những phân tích nông cạn và luận giải hàm hồ mà vẫn thuyết phục được phân nửa thế giới rồi gây ra chiến tranh kéo dài ngụy danh là cách mạng. Từ 15 năm nay, tình hình đã đảo ngược và người ta lạc quan nói rằng Marx sai, chủ nghĩa tư bản đã thắng thế ở khắp nơi khiến kinh tế thị trường là quy luật phổ biến.

Giờ đây, thế giới mới bắt đầu thấy ra là sự thay đổi ấy đang gây phản ứng, mà phản ứng mạnh nhất là tại các nước giàu, từ thành phần thấy mình bị thiệt thòi vì chính hiện tượng chúng ta gọi là toàn cầu hóa. Vì vậy, 84 triệu người Việt vui mừng bước ra có khi lại ngỡ ngàng khi gặp sự chống đối rất tinh vi từ các nước giàu bên ngoài dội ngược về.

- Hỏi: Dường như ông đang muốn mô tả những chuyển động lớn trước khi nói đến hậu quả của chúng trong lĩnh vực lao động"

- Trước đây, chính xác là trước năm 1991, chúng ta còn có gần phân nửa thế giới sinh hoạt kinh tế khép kín trong thế giới gọi là xã hội chủ nghĩa hay đường lối kinh tế bao cấp và ít trao đổi gì với các nước theo kinh tế tự do. Đó là trường hợp của khối Xô viết, các nước Đông Âu, Trung Quốc, Ấn Độ và Việt Nam. Ngày nay, ngần ấy nước đều phá vỡ hàng rào ngăn sông cấm chợ để làm ăn buôn bán với bên ngoài. Ta gọi đó là toàn cầu hóa hay kinh tế nhất thể hóa và tin là kể từ đấy mức sống người dân tại các nước này có cải thiện.

Điều mà ít người thấy là kể từ đó đến nay, lực lượng lao động trên thế giới, thành phần công nhân viên thợ thuyền, đã tăng thêm chừng một tỷ rưỡi, tức là nhân đôi dân số lao động trong cái đại dương bát ngát ta gọi là toàn cầu hóa. Cụ thể là trong lịch sử loài người thì từ 15 năm nay, dân số lao động đã có thêm một tỷ rưỡi được giải phóng để trở thành khoảng ba tỷ người. Những người được giải phóng như vậy, dù có khi mới chỉ là giải phóng nửa vời như tại Việt Nam, đều thấy mức sống của mình có được nâng cao. Nhưng nhân công tại các nước giàu có thì thấy ngược lại. Và họ bắt đầu có phản ứng. Điều nguy hiểm, y hệt như trong hiện tượng Mác-xít và xã hội chủ nghĩa, họ không hiểu ra sự thay đổi nên cưỡng chống và các chính trị gia khai thác tinh thần ấy nên dẫn tới kết quả ngược, đó là phản ứng bảo hộ mậu dịch ta đã nói đến rất nhiều ở đây.

- Hỏi: Ông nhắc đến việc lực lượng lao động nhân đôi trong có 15 năm lên ba tỷ người, có cách gì mình suy ngẫm ra những biểu hiện của sự thể ấy không"  

- Mười lăm năm trước, người Việt Nam có khi nào tưởng tượng rằng mình sẽ đóng bàn ghế hay khâu quần áo giày dép bán sang Mỹ không" Ngược lại, công nhân Mỹ trong các ngành ấy có khi nào tưởng tượng là sẽ mất việc vì sức cạnh tranh của các sản phẩm tương tự từ Trung Quốc hay Việt Nam đổ qua không" Khi bắt đầu buôn bán với Mỹ, phần xuất khẩu của Việt Nam qua Mỹ đã tăng gấp bội so với của Mỹ sang Việt Nam và số người có thêm việc làm hay mất việc làm nhờ hoạt động xuất nhập khẩu giữa hai nước sẽ có phản ứng chống hay thuận khác nhau. Đây là ta chưa nói đến hiệu ứng của cách mạng tin học...

- Hỏi: Toàn cầu hóa rồi cách mạng tin học là hai yếu tố dẫn tới sự thay đổi ấy"

- Thưa vâng, đó là sự hiện diện của lực lượng ta gọi là lao động nghèo, từ Đông Âu đổ qua Tây Âu trong Liên hiệp Âu châu, hay từ Trung Quốc, Ấn Độ và Việt Nam đổ qua Mỹ và gây vấn đề cho thợ thuyền của các nước giàu. Đã thế, ngay trong nội bộ các nước công nghiệp đi trước, thì tiến bộ về khoa học đã gây ra thay đổi trong phương thức sản xuất. Một thí dụ dễ thấy nhất là ngày nay ta không còn thấy nhân viên bơm xăng hay chùi xe trong các trạm xăng tại Mỹ nữa. Tất cả đều đã tự động hoá bằng máy cả. Sự thay đổi ấy có nghĩa là dân bơm xăng mất việc nhưng kỹ sư ráp chế hay bảo trì máy bơm xăng lại có việc, với đồng lương cao hơn người bơm xăng. Từ lao động áo xanh lên áo trắng là thế.

Ở cấp cao hơn, cách mạng về công nghệ tin học cũng giúp nhiều người giỏi về điện toán từ bên trong Ấn Độ, Việt Nam làm việc cho công ty tại Mỹ qua không gian điện toán, với hậu quả là kỹ sư điện toán tại Mỹ mất việc nếu họ không leo lên một bậc thang cao hơn về công nghệ, nghĩa là có chuyên môn cao hơn. Việc làm gia công ấy ngày càng phổ biến và bị đả kích tại các nước giàu là làm dân chúng mất việc.

Hai ví dụ ấy minh diễn sự chuyển dịch cơ cấu sản xuất từ thấp lên cao, từ chế biến lên dịch vụ, từ quốc gia ra quốc tế. Mà đấy cũng là một thay đổi khiến kẻ khóc người cười và phải có phản ứng. Khi người thiếu tay nghề chuyên môn bị thiệt vì mất việc hoặc phải lao động với đồng lương thấp hơn thì họ phải tranh đấu, như qua nghiệp đoàn, hoặc qua chính trường, để đòi tăng mức lương tối thiểu chẳng hạn. Hậu quả là lại càng thúc đẩy sự thay đổi ấy mạnh mẽ hơn và dẫn tới phản ứng bảo hộ mậu dịch từ các nước giàu.

- Hỏi: Nhưng, người ta thường lý luận rằng toàn cầu hóa cuối cùng có lợi cho mọi người, mọi nước. Mươi năm trước đây chẳng hạn, ai cũng ca tụng hiện tượng ấy mà"

- Điều ấy đúng trên đại thể và trong trường kỳ, nhưng cũng gây ra những thay đổi bất bình đẳng trên toàn cầu và trong từng nước, và tác động vào cảm quan ấn tượng của người trong cuộc. Thế giới toàn cầu hóa ngày nay có nhiều người sản xuất hơn người tiêu thụ và cạnh tranh với nhau gay gắt hơn. Thế giới ngày nay cũng có những nước nhập siêu và xuất siêu. Một thí dụ dễ thấy là sau khi bình thường hoá về ngoại thương với nhau, Mỹ bán cho Việt Nam gần một tỷ nhưng mua của Việt Nam gấp gần mười và bị nhập siêu. Bao nhiêu người Mỹ có lợi nhờ bán cho Việt Nam bảy tám trăm triệu Mỹ kim hàng hoá và bao nhiêu người bị thiệt khi Mỹ mua của Việt Nam bảy tỷ Mỹ kim" Đã thế, ngay trong nội bộ các nước công nghiệp, lao động ngày nay càng bị lép vế nặng...

- Hỏi: Tại các nước công nghiệp hoá và cũng là các nước dân chủ, người ta có nghiệp đoàn để tranh đấu cho quyền lợi của họ...

- Đây cũng là một hiện tượng thay đổi bất bình đẳng khác mà Việt Nam chưa nhìn ra.

Tại Việt Nam, quyền tự do nghiệp đoàn chưa hề có, công đoàn chỉ là công cụ của đảng và nhà nước chứ chưa thực sự bảo vệ quyền lợi của dân lao động đích thực. Chuyện ấy rồi cũng sẽ phải thay đổi và nên thay đổi càng sớm càng hay vì nếu không, lao động Việt Nam sẽ bị thiệt hại nặng vì một hiện tượng đối nghịch tại các nước giàu.

Tại các nước giàu, loại công đoàn tranh đấu cho quyền lợi thợ thuyền đang suy sụp dần. Họ mất đoàn viên vì không tranh đấu nổi cho hữu hiệu do hiện tượng toàn cầu hoá. Tỷ lệ thợ thuyền gia nhập nghiệp đoàn tại các nước giàu – có lẽ trừ trường hợp Bắc Âu – đã sút giảm liên tục từ cả chục năm nay. Trong các nước giàu, chỉ còn nghiệp đoàn công chức là mạnh, và đại đa số đều bỏ phiếu cho cánh tả, thí dụ như đảng Dân chủ tại Mỹ hay đảng Lao động tại Anh, để bảo vệ thành quả đấu tranh của họ trong hệ thống bao cấp và tăng cường vai trò của nhà nước để gìn giữ quyền lợi cho công chức. Còn thành phần lao động thực tế thì không, dù là nạn nhân của thay đổi về sản xuất và nạn nhân của toàn cầu hoá.

- Hỏi: Nhưng, nếu nhìn từ doanh nghiệp ra thì hiện tượng ấy có lợi hay có hại"

- Lợi hay hại thì cũng còn tùy thành phần, theo quy luật chung. Nói cho đơn giản theo lối cổ điển thì trong ba thành phần sản xuất là đất đai, tư bản kỹ thuật và lao động thì vị trí của thành phần lao động ngày càng sút giảm. Mà đất đai thì cũng là tư bản, là tiền của chủ đầu tư. Tiến bộ trong khoa học sản xuất và đổi thay trong khuôn khổ sinh hoạt mở ra toàn cầu đang khiến cho tư bản chiếm vị trí quyết định, điều ấy có lợi cho doanh nghiệp và những ai có tiền đầu tư vào cổ phiếu các công ty. Tỷ lệ dân chúng có tài sản đầu tư vào thị trường chứng khoán gia tăng trong khi tỷ lệ dân chúng tham gia vào công đoàn lại sút giảm. Hậu quả chung là ảnh hưởng sa sút của nghiệp đoàn tại các nước giàu.

- Hỏi: Ông trình bày một điều rất lạ nếu nhìn từ Việt Nam là vai trò sa sút của các nghiệp đoàn. Ông có thể nào nêu vài thí dụ về hiện tượng ấy không"

- Trừ các nước Bắc Âu, tại các nước công nghiệp, công nhân viên làm trong xí nghiệp tư doanh đang rút dần ra khỏi công đoàn. Chỉ còn 8% thợ thuyền Mỹ còn là đoàn viên của một công đoàn tự do. Tại Nhật, tỷ lệ đó là 17%, 22% tại Đức, hơn 5% tại Pháp. Tỷ trọng công đoàn ấy rất thấp so với thành phần công chức hay nhân viên xí nghiệp quốc doanh đang là đoàn viên của một nghiệp đoàn. Karl Marx có tái sinh thì cũng thất nghiệp.

- Hỏi: Thế rồi, hậu quả của hiện tượng đó là thế nào"

- Một hậu quả mà ít ai ngờ là vào tháng Bảy năm kia, hệ thống công đoàn lớn nhất đã vỡ đôi. Tổng liên đoàn AFL-CIO đã bị khủng hoảng vì nhiều liên đoàn khác đã tách riêng. Lý do là có nghiệp đoàn không tranh đấu cho quyền lợi đoàn viên nữa mà trở thành một lực lượng chính trị, tích cực hậu thuẫn đảng Dân chủ. Các nghiệp đoàn khác thì tập trung vận động vào doanh giới thay vì chính giới, để gây áp lực thẳng với doanh nghiệp. Họ ở vào thế rất kẹt là càng gây áp lực thì doanh nghiệp càng muốn đầu tư ra ngoài để khỏi bị áp lực, đâm ra toàn cầu hóa gây thiệt hại cho thợ thuyền và công đoàn mà ở bên kia đại dương, chúng ta không nhìn thấy. Giờ đây, làn sóng đó đang dội ngược lại.

Đó là thành phần lao động tại các nước giàu không đấu tranh qua công đoàn nữa mà qua chính trường và các chính trị gia thính mũi đã biết khai thác điều ấy. Hậu quả là ở rất nhiều nơi, không riêng gì Hoa Kỳ này, Quốc hội sẽ tranh đấu mạnh cho lao động và sẽ có nhiều luật lệ hạn chế toàn cầu hóa, hoặc tăng cường bảo hộ mậu dịch. Việt Nam nên sớm thấy trước điều ấy sau khi ăn mừng WTO.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Từ thế kỷ thứ ba trước Tây lịch, Triết gia Mạnh Tử (372-289 BC) của Trung Hoa đã nói rằng, “Dân là quý, thứ đến đất nước, rồi tới vua.” Điều đáng nói là Mạnh Tử là người đi theo học thuyết của Nho Gia vốn chủ trương vua là con ông Trời (Thiên tử) được sai xuống nhân gian để trị quốc an dân, vậy mà cũng không thể phủ nhận vai trò quan trọng, nếu không muốn nói là tối quan trọng của người dân. Thời hiện đại, công pháp quốc tế đã nêu ba yếu tố chính hình thành một quốc gia: người dân, lãnh thổ và chính quyền. Trong đó, thật ra người dân chính là yếu tố then chốt quyết định. Lãnh thổ nếu không có dân ở, không có người quản trị thì không phải là đất nước của một dân tộc. Chính quyền từ người dân mà ra, bởi vì trước khi một người ra nắm quyền cai trị đất nước thì người đó phải là một người dân của đất nước ấy. Hơn nữa, sự thịnh suy của một quốc gia nằm trong tay người dân.
“Phản động lực” mà người Đài Loan thể hiện trong cuộc bầu cử tổng thống vừa rồi khiến tôi, sau những suy nghĩ miên man về chuyện nước non, lại quay về với bài học yêu nước của thời tiểu học với câu hỏi khó, khiến nhiều học trò gác bút: “Em hãy tìm từ phản nghĩa với ‘tôn đại’.” Trung Quốc càng hung hăng đe dọa bao nhiêu, Đài Loan càng quật cường ngạo nghễ bấy nhiêu. Mà nếu Bắc Kinh ngu ngơ hay vờ vịt không biết gì đến định luật này thì, thầy nào tớ đó, Hà Nội cũng mù tịt hay giả bộ tương tự. Họặc mù tịt như thể đã hoàn toàn miễn dịch trước luật này; hoặc đóng kịch như thể không hề sống trong không gian ba chiều bình thường mà là một môi trường nào đó thiêu thiếu, cơ hồ chỉ… hai chiều rưỡi.
Tôi sinh trưởng ở Đà Lạt (Thành Phố Ngàn Hoa) nên sự hiểu biết về hoa lá cũng không đến nỗi tồi. Thế mà mãi tới bữa rồi, nhờ xem trang Trăm Hoa, mới được biết thêm về một loài hoa nữa – hoa ban: “Mùa hoa nở là lúc các cặp đôi nô nức đến thăm Tây Bắc. Hoa ban trắng tượng trưng cho tình yêu chung thủy và sự chân thành, dù tình yêu có gặp nhiều trắc trở, khó khăn thì cũng tự tin vượt qua và sẵn sàng đi đến bến bờ hạnh phúc. Các cặp đôi yêu nhau thường thề nguyện dưới gốc cây hoa ban như một minh chứng cho tình yêu thủy chung, bền chặt.”
Nhìn vào sự xuất hiện, sinh trưởng và tồn tại của chế độ cộng sản ở Việt Nam, chúng ta không thể phủ nhận đã có sự tương đồng với những thông tin tóm lược vừa nói về bệnh ung thư của con người...
Tôi tình cờ nhìn thấy hình Nguyễn Thúy Hạnh đang lơn tơn đẩy một cái xe cút kít đầy ắp bưởi (trên trang RFA) trong một cuộc phỏng vấn do Tuấn Khanh thực hiện, vào hôm 19 tháng Giêng năm 2021. Bên dưới tấm ảnh này không có lời ghi chú nào về thời điểm bấm máy nên tôi đoán có lẽ đây là lúc mà cô em đang hớn hở đến thăm vườn bưởi của họ Trịnh (ở Hòa Bình) vào “thuở trời đất (chưa) nổi cơn gió bụi”!
Tổng Bí thư đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng đang phải đối mặt với cuộc tranh chấp nội bộ trong kế hoạch tìm người kế nhiệm lãnh đạo khóa đảng XIV, nhiệm kỳ 2026-31. Những tranh chấp này được giữ kín để tránh hoang mang nội bộ. Chúng bộc phát ngay tại các Đại hội đảng địa phương và các ban đảng từ tháng 10 năm 2023...
Cuộc bầu cử tổng thống lần thứ 8 tại Đài Loan đã được tổ chức vào ngày 13/1 với kết quả là ông Lại Thành Đức Phó chủ tịch Đảng Dân tiến (Democratic Progressive Party, DPP) thắng cử...
Chúng ta đang làm nhân chứng cho một cuộc bầu cử kỳ quặc và đa sự chưa từng xảy ra trong lịch sử đầu phiếu ở Hoa Kỳ. Có thể nói, không chỉ lịch sử, mà rộng lớn hơn, chính là "sự cố" văn hóa chưa từng thấy. Bước vào năm 2024, sự tranh đua giữa hai đảng Cộng Hòa và Dân Chủ càng gay go, khốc liệt với âm mưu, độc kế, thủ đoạn, ám toán, bôi nhọ, mánh mung, để xem ai sẽ là chủ nhân của ngôi Nhà Trắng trong bốn năm tới. Tất cả những ý nghĩ, hành vi đó đều gôm vào chính sách, chiến lược và chiến thuật vận động bầu cử. Bạn đọc sẽ có dịp theo dõi các thầy bàn người Mỹ và thầy bàn người Việt (trong và ngoài nước) phong phú hóa, hư cấu hóa, ảo tưởng hóa về việc bầu cử, tạo ra câu chuyện nửa thực, nửa hư, thú vị, bất ngờ với giận dữ và thất vọng, sung sướng và buồn bã, rung đùi và cụng ly, nguyền rủa và chửi bới, vân vân. Thông thường những luận lý, âm mưu, phê phán, dự đoán đó… được mổ xẻ qua kiến thức và kinh nghiệm tây phương, nơi có hàng ngàn sách vở nghiên cứu chính trường, chính đạo,
Chúng ta đang bước vào năm bầu cử. Năm 2024 sẽ có một cuộc bầu cử có tính quyết liệt, vì các lựa chọn chắc chắn sẽ gây tranh cãi trong nội bộ cộng đồng gốc Việt, trong các gia đình người Việt, giữa các lựa chọn về cấp tiến và bảo thủ, giữa các thế hệ trẻ và già ở hải ngoại. Và chắc chắn là bầu cử tháng 11/2024 tại Hoa Kỳ sẽ ảnh hưởng tới cuộc chiến Trung Đông, cuộc chiến ở Ukraine, và ở cả Đài Loan. Tác động như thế nào, chúng ta khó đo lường hết tất cả các ảnh hưởng. Trong đó, một tác động lớn là từ tin giả, nói kiểu Mỹ là Fake News, tức là tin không thật.
Tôi rất thích khoa nhân chủng nhưng không có cơ may đến trường để được truyền thụ một cách bài bản về ngành học thú vị này. Hoàn cảnh sống, nói nào ngay, cũng không mấy thích hợp cho nhu cầu tự học. Suốt ngày (và suốt đời) tôi chỉ loanh quanh hàng quán nơi mà những kẻ hay lê la thường nói rất nhiều, dù sự hiểu biết của họ vốn không được bao nhiêu. Ngoài giới hạn về kiến thức, mấy ông bạn đồng ẩm còn có cái tật rất hay tranh cãi (và luôn cãi chầy cãi cối) nên mọi thông tin, từ bàn nhậu, đều không được khả xác hay khả tín gì cho lắm.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.