Hôm nay,  

Khủng Hoảng Kinh Tế Thị Trường Vì Cái Đuôi “Định Hướng Xã Hội Chủ Nghĩa”

30/06/200800:00:00(Xem: 11166)
Tờ The Economist số ngày 21/6 – 27/6/2008 đăng bài: “Vietnam: Flu Symtoms” (1) [Cảm cúm kinh tế Việt Nam] vẽ một bức tranh ảm đạm của nền kinh tế Việt Nam.

Bài báo viết: [Ngay với việc thường thấy tại Á châu là kinh tế trồi trụt, việc các nhà đầu tư thay đổi cái nhìn về kinh tế Việt Nam thật đáng kinh ngạc. Mấy tháng trước đây họ phấn khởi bao nhiêu thì bây giờ bi quan bấy nhiêu. Lạm phát trên 25% làm cho thị trường chứng khoáng vốn là một thị trường khởi sắt nhất tại Á châu tuộc dốc. Thoạt tiên nhà cầm quyền Việt Nam lo rằng lạm phát sẽ áp lực lên tỉ giá hối đoái của đồng bạc Việt Nam, nhưng lúc này bắt đầu lo sợ một cuộc khủng hoảng tiền tệ. Nhiều nhà kinh tế lo rằng những gì đang xẩy ra tại Việt Nam sẽ ảnh hưởng đến kinh tế các nước Á châu khác, tại nhiều nước lạm phát đã ló dạng.

Ngân hàng Nhà nước tuyên bố phá giá đồng Việt Nam 2% để giảm áp lực trên đồng tiền Việt Nam, đồng thời tăng lãi xuất cho vay cơ bản từ 12% lên 14%. Hai biện pháp này đã giúp thị trường chứng khoáng đôi chút. Sự tuộc dốc chứng khoáng có chiều ngưng lại sau 25 ngày mất giá liên tiếp. Nhưng giá trị của đồng Việt Nam trên thị trường quốc tế sẽ mất giá ít nhất 30% trong vòng một năm lại đây.

Nhiều tháng qua các chỉ dẫn cho thấy kinh tế Việt Nam quá nóng. Thâm thủng mậu dịch từ tháng Giêng đến tháng Năm năm nay trên 14 tỉ mỹ kim, bằng độ thâm thủng mậu dịch của cả năm 2007. Thị trường đất đai nhà cửa theo chân thị trường chứng khoáng cũng bị khủng hoảng làm cho các ngân hàng trong nước bị đe dọa phá sản. Các ngân hàng này đã cho các nhà đầu cơ vay quá nhiều tiền để họ đầu tư vào chứng khoáng và nhà cửa đất đai. Chính phủ Việt Nam cũng nghĩ đến trợ cấp cho hàng chục  ngân hàng nhỏ khỏi chết. Dù vậy các nhà đầu tư vẫn hy vọng rằng kinh tế Việt Nam sẽ phục hồi và trở nên vững mạnh như kinh tế Trung quốc.

Nhưng dân chúng trong nước bi quan hơn, lo ngại lạm phát sẽ đến mức không kềm chế được như từng đã xẩy ra trong quá khứ.Vì sợ bất trắc, dân chúng đua nhau mua vàng. Ông Tim Condon, một nhà kinh tế làm việc cho công ti ING ở Singapore cho biết rằng trong 4 tháng từ đầu năm 2008 đến nay Việt Nam đã nhập cảng 43 tấn vàng, thế nhưng giá vàng tại Sài gòn vẫn cao hơn giá vàng trên thị trường quốc tế .

Để chận đứng nạn đầu cơ, chính phủ hạn chế việc bán đồng mỹ kim tại các trạm đổi ngoại tệ. Và để giảm nhập cảng (giúp cân bằng cán cân mậu dịch) chính phủ chỉ cho phép Ngân hàng Nhà nước bán mỹ kim ra cho các nhà xuất nhập cảng mua các mặt hàng nhu yếu đã được phép nhập cảng. Biện pháp này có một hậu quả là khuyến khích các con buôn mua mỹ kim tại chợ đen hay mua ở nước ngoài, và làm cho tỉ giá chính thức của đồng Việt Nam bị chao đảo.

Mặc dù lãi suất gởi tiền mới tăng, lãi suất thật vẫn còn là số âm nếu tính đến lạm phát. Trong khi đó chính phủ ban hành một lệnh kỳ quặt là cấm các ngân hàng cho vay với lãi suất cao hơn 150% lãi suất cơ bản, kết quả là các ngân hàng không cho ai vay cả (vì không có lời). Theo ông Dwor-Frecaut, một kinh tế gia làm việc cho công ty ABN AMRO tại Singapore thì các biện pháp phi lý chồng chất này chỉ làm cho Việt Nam khó ra khỏi cơn khủng hoảng tài chánh hiện nay một cách an toàn. Ông Dwor-Frecaut nói tốt nhất là để cho thị trường quyết định lãi suất cho vay.

Bức tranh kinh tế tài chánh còn rối mù hơn khi chính phủ ngưng phổ biến đúng lúc các con số liên quan đến dịch vụ ngân hàng và số ngoại tệ dự trữ. Có tin đồn số ngoại tệ dự trữ hiện nay xấp xỉ chung quanh con số 23 tỉ mỹ kim (con số của tháng 12/2007) dù chính phủ cố gắng giữ mức cao hơn. Ông Condon nói việc chính phủ không công bố các con số nói trên làm cho các nhà đầu tư nghi rằng có một cái gì bất ổn bên trong.

Tình trạng tài chánh của Việt Nam hiện nay có báo hiệu một điều gì bất ổn cho Á châu không" Người lạc quan cho rằng không, và nghĩ rằng lạm phát sẽ lên chút ít rồi giảm xuống vào cuối năm, các biện pháp của chính phủ sẽ ổn định tình hình tài chánh và cán cân mậu dịch trở lại mức bình thường, và sự phá giá chừng mực đồng Việt Nam sẽ ổn định giá trị của nó trên thị trường. Tuy vậy, theo đánh giá của Quỹ Tiền tệ Quốc tế - IMF) thâm thủng trao đổi thương vụ, phẩm vật và dịch vụ toàn diện (current account) của Việt Nam lên đến 13% GDP là con số lớn nhất tại Á châu. Cho nên vấn nạn kinh tế tài chánh của Việt Nam có tính nghiêm trọng riêng của nó.

Những gì đang diễn ra tại Việt Nam là một cảnh báo cho các nhà làm chính sách tại các nước Á châu rằng nạn lạm phát một khi xẩy ra có thể rất khó ngăn chận và nó sẽ làm cho các nhà đầu tư mất lòng tin một cách nhanh chóng.] (hết phần trích dịch - ghi chú của VB)

Bài báo có ý nghĩa ở chỗ là chỉ cách đây hơn 2 tháng, cũng tờ The Economist trong số báo ngày 26/4-2/5/2008 đăng loạt bài “Asia’s other miracle (2) & Half-way from Rags to Riches” không tiếc lời khen ngợi sự thành công của kinh tế Việt Nam mặc dù vào lúc đó nhiều dấu hiệu xấu đã xuất hiện như giá sinh hoạt lên cao, lạm phát phi mã, chứng khoáng tuột dốc, cán cân xuất nhập cảng thâm thủng, và mức tăng trưởng khựng lại. Người ta nghĩ rằng các nhà kinh tế Anh tiên đoán những vấn đề của Việt Nam chỉ là nhất thời.

Nhưng cái nhìn lạc quan của tờ báo The Economist đã không giúp gì cho kinh tế Việt Nam. Thực tế vẫn là thực tế, và bài báo “Flu Symtoms” là một nhìn nhận. Thực tế đó là: Một nền “kinh tế thị trường” được điều hành “theo định hướng xã hội chủ nghĩa” nghĩa là một nền kinh tế [gọi là] thị trường nhưng không được điều hành bằng những nguyên tắc kinh tế thị trường mà bằng lệnh của đảng để mang lại lợi nhuận cho đảng và các nhà tư bản đỏ của đảng với mục đích bảo vệ quyền hành chính trị của đảng thì trước sau cũng rơi vào khủng hoảng.

Trước vấn nạn kinh tế tài chánh đang đe dọa sự ổn định trong nước, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nỗ lực tìm mọi phương thuốc cứu chữa, liên tục ban hành biện pháp này rồi biện pháp khác, nhưng con bệnh vẫn không khỏe.

Nhân chuyến công du Hoa Kỳ vừa qua, hôm 23/6/2008 ông Dũng gặp ông Alan Greenspan, cựu thống đốc Quỹ Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ, người đã cầm cân nảy mực chính sách tài chánh của Hoa Kỳ rất thành công (từ năm 1987 đến năm 2006) để nghe lời cố vấn làm thế nào chấn chỉnh nền kinh tế Việt Nam.

Theo phóng viên Thiện Giao (đài Á châu Tự do) ông Alan Greenspan đã đưa ra các nguyên nhân tạo ra khó khăn của nền kinh tế Việt Nam gồm: Tác động của sự bùng nổ vốn đầu tư từ năm 2007, sự thiếu cân bằng giữa nguồn vốn ngoại tệ so với nội tệ, sự thiếu hiệu quả trong quản lý dòng tiền tệ, tình trạng nhập siêu, và những ảnh hưởng tiêu cực từ khu vực tập đoàn kinh tế nhà nước.

Và ông Greenspan đề nghị: giảm chi tiêu chính phủ, giảm tăng trưởng tín dụng của Ngân hàng Trung ương, giảm tăng trưởng kinh tế để tránh đưa ra tín hiệu sai lệch cho giới đầu tư, nâng cao khả năng cạnh tranh bằng năng suất thay vì nhân công rẻ, và mạnh tay với các tập đoàn kinh tế nhà nước.

Vấn đề là, những lời cố vấn của ông Greenspan là những phương thuốc áp dụng cho một nền kinh tế thật sự thị trường (ít nhất ngân hàng nhà nước độc lập với chính phủ, luật lệ tài chánh phân minh, tự do thông tin, tòa án độc lập …) trong khi kinh tề Việt Nam thị trường không ra thị trường, chỉ huy không ra chỉ huy thì các lời khuyên của ông Greenspan cũng không giải quyết được gì.

Tiến sĩ Nguyễn Quang A, Viện Trưởng Viện Nghiên cứu Phát triển Việt Nam, cũng như các chuyên viên của Ngân hàng Nhà nước đều đã thấy nguyên nhân và phương thuốc như ông Alan Greenspan và đã đệ đạt đến các nhân vật có thẩm quyền nhưng chính quyền thiếu ý chí chính trị để thực hiện.

Tiến sĩ Nguyễn Quang A, qua bài : “Chính sách lãi suất kỳ lạ” (3) đăng trên tờ Lao Động Cuối Tuần số 20 ngày 18/5/2008 đã viết rằng các chuyên viên làm việc tại Ngân hàng Nhà nước không xa lạ gì với các biện pháp ngân hàng cần thiết để ổn định kinh tế vĩ mô, “nhưng nếu các ‘cổ đông lớn’, các ‘ông chủ’ của các ngân hàng ấy hay những người đã chủ trương sai lại có thể ảnh hưởng đến chính sách ‘cứu’ thì vô cùng nguy hiểm.” Ông quả quyết: “Tôi tin Ngân hàng Nhà nước có nhiều chuyên gia rất giỏi, có nhiều kinh nghiệm và có thể giải quyết tốt vấn đề. Hay họ không được làm vì có ai đó không để cho họ làm"”

Tại sao các chuyên viên không làm được và “ai đó” là ai đó" Nếu không phải là các tư bản đỏ cầm quyền không muốn dùng các phương thuốc tốt vì có hại cho quyền lợi của họ.

Nói tóm lại khủng hoảng hiện nay do cơ chế chính trị. Và nếu cơ chế chính trị không được cải sửa thì có áp dụng biện pháp nào cũng là vá víu, loanh quanh trong một vòng tròn lẩn quẩn gập ông đập lưng ông .

Trần Bình Nam

June 29, 2008

binhnam@sbcglobal.net

www.tranbinhnam.com

Các link tham khảo:

(1) Flu Symtoms

(2) Asia’s other Miracle

(3) Chính sách lãi suất kỳ lạ - Nguyễn Quang A

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) nhìn nhận tình trạng “trẻ hóa” trong suy thoái “tư tưởng chính trị ” và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đang gây khó khăn cho công tác “xây dựng, chỉnh đốn đảng”...
Năm 2024 là năm bầu cử, một năm gay go thử thách, và đề tài yêu ghét dù muốn hay không muốn đã trở lại trên các trang báo, trong các buổi tranh luận trong gia đình, ngoài xã hội. Chúc bàn tiệc trong năm của quý vị rôm rả những câu chuyện, những cuộc đối thoại bổ ích hai chiều, những thay đổi tốt đẹp. Và xin cảm ơn quý thân hữu, thân chủ đã hỗ trợ, gắn bó cùng hành trình với Việt Báo trong hơn 31 năm qua. Sau cùng là lời tri ân đến các độc giả Việt Báo: chính quý vị, những người đọc khó tính là thành trì giúp Việt Báo trở thành một tờ báo uy tín, chuyên nghiệp.
Năm 2023 tiến vào những ngày cuối cùng, nó sẽ đi qua và không bao giờ trở lại. Lịch sử sẽ đi qua nhưng những việc làm của con người sẽ tồn tại với sự khôn ngoan và ngu ngốc của đa số. Cụm từ ‘con-người-đa-số’ chỉ định ý muốn chung của đa số người. Và ‘con-người-thiểu-số’ đành phải tuân theo. Trò sinh hoạt dân chủ luôn luôn là con dao hai lưỡi có hiệu quả tùy thuộc sở thích của con người đa số. Sở thích? Một thứ tạo ra tốt lành hoặc khổ nạn. Đúng ra là cả hai, nhưng có một trong hai sẽ lớn hơn, đôi khi, lớn gấp bội phần. Nếu khổ nạn quá lớn thì cuộc sống chung sẽ thay đổi, có khi lâm vào mức tồi tệ. Chẳng hạn như trường hợp nước Đức dưới thời Hitler. Ý muốn của con người đa số đam mê nồng nhiệt ý muốn của Hitler. Cho ông ta cơ hội dẫn đầu một quốc gia quyền lực, tạo ra hiệu quả cuộc chiến thế giới thứ hai. Hậu quả tàn khốc đó do ai? Hitler? Đúng một phần.
“Tự diễn biến, tự chuyển hóa” trong Lực lượng vũ trang nhân dân là mối lo hàng đầu của đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay. Bằng chứng này đã được Tổng Bí thư đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng đưa ra tại Hội nghị Đảng ủy Công an ngày 20/12/2023 tại Hà Nội, và trong nội dung các bài viết trên báo chí chính thống của nhà nước liên quan đến Quân đội...
Người ta nên áp dụng đạo đức vào tài chính trị của Henry Kissinger như thế nào? Làm thế nào để người ta quân bình những thành tựu với những hành vi sai trái của Kissinger? Tôi đã vật lộn với những vấn đề đó từ khi Kissinger là giáo sư của tôi, và sau này là đồng nghiệp tại Đại học Harvard. Vào tháng Tư năm 2012, tôi đã giúp phỏng vấn ông trước một số lượng lớn cử toạ tại Harvard và hỏi liệu ông có làm điều gì khác đi trong thời gian làm ngoại trưởng cho các Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon và Gerald Ford không. Lúc đầu, ông nói không. Suy nghĩ lại, ông nói rằng ước mình là đã hoạt động tích cực hơn ở Trung Đông. Nhưng ông không đề cập đến Campuchia, Chile, Pakistan hay Việt Nam. Một người phản đối ở phía sau hội trường hét lên: "Tội phạm chiến tranh!"
Việt Nam có còn “độc lập” với Trung Quốc hay không sau chuyến thăm Hà Nội của Tổng Bí thư, Chủ tịch nhà nước Tập Cận Bình là thắc mắc của người dân Việt Nam. Ông Tập có mặt ở Việt Nam từ 12 đến 13 tháng 12 năm 2023 và đạt được cam kết của Tổng Bí thư đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng về “xây dựng Cộng đồng chia sẻ tương lai Việt Nam-Trung Quốc”.
Ngày nay, Chiến lược Phòng thủ Quốc gia của Hoa Kỳ – giống như chiến lược Chiến tranh Lạnh tạo chuẩn mực cho tư duy chiến lược trong những năm từ thập kỷ ‘50 đến ’80 – bị chi phối bởi một tác nhân đe dọa chính, đó là Trung Quốc. Điều này vừa cung cấp thông tin vừa tạo điều kiện cho tất cả các mối đe dọa lớn khác có thể xảy ra: Nga, Iran và Bắc Triều Tiên. Giống như thời kỳ Chiến tranh Lạnh, Hoa Kỳ hiện đang lâm vào một cuộc cạnh tranh với đối thủ duy nhất của mình, một cuộc cạnh tranh có khả năng bỏ rơi các thành tựu chính trị, kinh tế và công nghệ. Hoa Kỳ cũng đang ở trong một cuộc chạy đua vũ trang hiện đại, và trong một số trường hợp, chơi trò đuổi bắt và tranh đua để giành tình hữu nghị, gây ảnh hưởng lên các quốc gia khác trên thế giới.
Rồi vào ngày 12/12/2023, tức chỉ sau ba tháng, Việt Nam lại long trọng tiếp đón Chủ Tịch Tập Cận Bình và nói rằng hợp tác và hữu nghị với Trung Quốc là lựa chọn chiến lược của Việt Nam...
Chỉ ba tháng sau khi Việt Nam nâng cấp quan hệ với Mỹ lên cấp cao nhất trong hệ thống phân cấp ngoại giao trong chuyến thăm của Tổng thống Biden, người ta thấy Chủ tịch Tập Cận Bình của Trung Quốc đã trở thành nhà lãnh đạo thế giới mới nhất tăng cường quan hệ với Việt Nam với chuyến thăm Hà Nội trong tuần này...
Chuyến thăm Việt Nam hai ngày của Tổng Bí thư Đảng, Chủ tịch nước Cộng sản Trung Quốc, Tập Cận Bình đã để lại nhiều hệ lụy cho nhân dân Việt Nam hơn bao giờ hết. Bằng chứng này được thể hiện trong Tuyên bố chung ngày 13/12/2023 theo đó họ Tập thay quan điểm “cộng đồng chung vận mệnh” bằng “xây dựng Cộng đồng chia sẻ tương lai” cho hai nước...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.