Nhìn cái địa chỉ đến hai, ba dấu “suyệc” (/), tôi biết rằng mình phải đi rất sâu vào con ngõ tối tăm, chật hẹp ấy. Năm nào cũng thế, gần đến những ngày cuối tháng tư dương-lịch là tôi lại có chút quà gửi đến anh cùng các đồng đội.
Nhớ những lần gặp gỡ anh sau này với gần hai chục gia-đình Thương-Phế-Binh tại một quán café vùng phụ cận Saigon. Các anh phải tổ chức buổi họp mặt hôm ấy thật kín đáo, vì Công-An khu vực biết ra sẽ không để cho các anh yên khi tôi trở lại Mỹ. Tôi đã liên lạc với anh bằng email cả năm trời, (do sự trung-gian của một ông anh tôi trong “Nha-Kỹ-Thuật”). Tôi được làm quen đến hơn ba trăm gia-đình TPB/QL.VNCH tại Việt-Nam. Tôi cũng được cái vinh-dự đứng ra lo chuyện hậu-sự cho các anh, như khi có người chết trong nhóm các anh mà không có tiền làm đám ma hoặc mua hòm chôn cất, cá nhân tôi sẽ đứng ra đảm nhận, và tôi cũng không đại diện cho bất cứ một Hội-Đoàn hoặc Tổ-Chức, Đảng-Phái hay Tôn-Giáo nào ở hải-ngoại cả.
Tôi may mắn sinh ra và lớn lên tại Saigon, những ngày còn bé của thập niên sáu mươi, tôi biết đất nước Việt-Nam đang oằn mình trong cuộc chiến Bắc-Nam, nhưng chỉ thấy được qua báo chí, truyền hình. Cho đến một buổi sáng, bố đưa tôi đến trường mẫu-giáo Hòa-Bình, bên cạnh Nhà Thờ Đức Bà, gần Bộ-Nội-Vụ (sở làm của Bố tôi), trường tôi đối diện với Bưu-Điện Saigon. Khi đi ngang vườn hoa Vương-Cung-Thánh-Đường có tượng Đức Mẹ lộ Thiên cao ngất Trời, tôi bủn rủn cả tay chân vì thấy một hố bom to như một lòng chảo khổng lồ ngay dưới chân Đức Mẹ Maria. Tôi sợ quá oà ra khóc, Bố phải dỗ dành và bảo:
“- Con bé nín khóc đi! Mọi việc đã qua rồi. Việt-Cộng câu “moọc-chê” vào ngay giữa thủ-đô, cũng may không có ai bị thương hoặc chết. Mà con thấy Đức Mẹ linh-thiêng ghê chưa" Hố bom to như thế kia, ngay dưới chân tượng mà Đức Bà chẵng hề hấn gì, dù là một mảnh sứt. Thôi! Hai Bố con mình quỳ xuống cầu nguyện cho đất nước sớm hòa-bình, rồi Bố còn phải đưa con vào lớp nữa!”
Tôi nín khóc, ngoan ngoãn chắp tay quỳ gối cầu nguyện cùng Bố. Trong đầu óc bé thơ của tôi lúc bấy giờ bỗng cảm thấy thật yên tâm vì có Bố, như một bóng cây cổ thụ bao trùm. Vì trên cao có Đức Mẹ nhân-ái và dường như lúc nào tôi cũng cảm được mình có các Tổng-Lãnh Thiên-Thần che chở.
Cho đến sau năm 1972 (mùa Hè đỏ lửa), ông anh rể tôi là lính Thủy-Quân-Lục-Chiến từ chiến trường Quảng-Trị trở về, sau bữa cơm tối gia-đình quây quần lại. Anh kể cho chúng tôi nghe về những giây phút cực kỳ nguy-hiểm trong bom đạn. Anh bảo:
“- Hôm ấy đã là đêm thứ ba, đơn-vị anh đang cố thủ tại Cổ-Thành Quảng-Trị, ngay trong Nhà Thờ La-Vang, đạn bom đã cày xéo không chừa chỗ nào. Anh núp dưới Cung-Thánh. Quá buồn ngủ và quá mệt mỏi, anh không biết phải làm sao, chợt thấy một xâu chuỗi có hình Đức Mẹ Mân-Côi. Anh vội choàng vào cổ và khấn thầm xin Đức Mẹ cho anh ngủ được một giấc an lành đến sáng. Anh không phải là người có đạo, nhưng lúc bấy giờ “kẹt” quá, phải “níu áo Đức Mẹ” thôi! Thế là anh thiếp đi, tờ mờ sáng hôm sau tỉnh giấc mới hay Cờ Quốc-Gia đã tung bay trên Cổ Thành Quảng-Trị”…
Đó là những gì khi còn bé, tôi biết về chiến tranh giữa hai bên Quốc-Cộng của người dân nước tôi. Tôi cũng thấy được trên truyền hình những bà Mẹ Việt-Nam khóc vật vã bên xác con hay bên xác chồng.
Khi tìm đọc được tác-phẩm “Vành Khăn Sô Cho Huế” của nhà văn Nhã-Ca tôi đã bao lần ứa nước mắt. Cũng như khi gặp lại bà chị thân thương của tôi ở Sydney (Úc-Châu) là nhà văn Lệ-Hằng, chị đã kể cho tôi nghe rất nhiều những câu chuyện về Lính, về những người vợ Lính trong thời chinh-chiến, về Nghĩa Trang Quân-Đội Biên-Hòa với trùng trùng những ngôi mộ xanh non mơn mởn, vì chị chưa thấy một nghĩa trang nào trên trái đất lại có nhiều người Lính trẻ trinh-nguyên chết trận nhiều đến thế.
Có lẽ trái tim tôi biết thần tượng người Lính trận từ đó, những người đã hy-sinh mạng sống cho tôi có một phần đời tuổi thơ ấm êm nơi thành-phố năm xưa.
Lòng tri-ân của tôi có cơ hội để đáp trả khi được gặp lại anh hôm nay trong con ngõ tối tăm sâu hun hút này. Anh ngồi quay lưng, bất động như một pho tượng trên chiếc xe lăn khi tôi bước vào nhà. Anh bất ngờ quay người lại đối diện với tôi. Tôi đã bật khóc khi thấy khuôn mặt anh bị tàn phá vì bom đạn. Chiến tranh tàn khốc năm xưa cũng lấy đi của anh đôi chân. Hôm đó, anh mới có thời-gian tâm sự. Mắt anh mở lớn nhìn tôi, lúc sau anh mới cho tôi biết nỗi ngạc nhiên và sửng sốt tiềm ẩn trong ánh mắt ấy. Anh bảo:
“- Chiến tranh đã lùi xa, vì thế hậu quả và trách-nhiệm ấy đã không còn thuộc về ai nữa. Dưới mắt xã-hội hôm nay chúng tôi là những kẻ vô thừa nhận. Rất đỗi ngạc nhiên vì từ một bến bờ xa xôi, không hề quen biết nhau, em đã vượt nghìn dặm dài trở về với hành trang là một trái tim của lòng yêu thương. Mong nuốn được an ủi, xoa dịu phần nào những cảnh đời bất hạnh như của tôi nơi đây. Sự chia xẻ của em, nó hàm chứa trọn vẹn cả tấm lòng của cô gái bé nhỏ trong thời chiến năm xưa. Tai sao" Tại sao trong ký ức em vẫn còn lưu giữ được về hình ảnh người chiến-binh đã ngã ngựa """”
Tôi cũng ngậm ngùi nói với anh rằng:
“- Anh có biết là em đã trở về đây rất nhiều lần. Nơi được gọi là: “Quê-Hương” và “Tổ-Quốc”. Em vẫn thấy đau khổ dẫy đầy, mất mát quá nhiều không gì bù đắp được. Mơ ước của em thì rất lớn, nhưng tầm tay quá ngắn để có thể ôm trọn cả một quê-hương rách nát, tả tơi sau cuộc chiến. Em không nhìn đời sống ở Việt-Nam hôm nay xô bồ, xô bộn qua những bon chen, vật vã, thác loạn ở Saigon. Xe cộ tấp nập ngược xuôi không lề lối, phố xá, hàng quán, casino, vũ trường hoặc những tụ điểm ăn chơi. Em đã và đang đi tìm đến những cảnh đời rất thật, những vết thương hằn sâu chưa được chữa lành. Những khổ hạnh còn đầy dẫy.
Đôi khi em thấy mình đơn phương, độc mã. Chỉ có một cây kim và một sợi chỉ tình-thương trong tay, làm hành trang đi khâu vá từng mảnh đời rách nát.
Có người bảo em điên khi biết được em tìm đến Nghĩa-Trang Quân-Đội Biên-Hòa để thắp hương cầu nguyện cho các Anh-Hùng Tử-Sĩ VNCH. Người thì chê rằng tại sao em không biết tận hưởng mọi thú ăn chơi quý-phái của đời sống xứ Mỹ. Có người nhìn em bằng cặp mắt thương hại, tội nghiệp khi thấy em chui vào những ổ chuột, hầm cầu để sinh-hoạt với những người ăn xin, những em bé đánh giầy. Có người lại ghê tởm lánh xa em khi thấy em tìm về những làng cùi và những trại mồ côi la liệt các trẻ em quái thai, ghẻ lở, tàn tật hoặc biết em đến thăm các thiếu nữ xuân sắc Việt-Nam bị nhiễm HIV đang chờ chết từng ngày… Người thì khinh khi cho rằng em làm những công việc này để thỏa mãn ý thích riêng tư cho chính mình hoặc để khỏa lấp những thời-gian trống vắng.
Anh! Anh cũng hiểu là đời sống xứ người đôi khi không có thời gian để thở và em đã phải hy-sinh, phải trả một cái giá rất đắt trong đời sống cá nhân mình để đánh đổi cho những công việc từ-thiện này không"”
Tôi ngừng nói, khi thấy những giọt lệ trào ra từ khóe mắt anh. Đôi mắt rất đẹp và rất sáng dưới hàng mi cong. Đôi mắt của một thời oai hùng, oanh liệt trong chinh-chiến. Giờ thì trầm-uất, u-linh, chứa đầy sự nhẫn-nại, kiên-cường, chịu đựng cho cảnh đời tàn- phế mà anh đang cưu mang.
Trước khi chia tay, anh ngậm ngùi bảo với tôi rằng:
“Em có biết là biển dù mênh mông vẫn có bờ. Sông dù sâu tận cũng có đáy. Chỉ có “Tình Người” là vô-biên. Ngày mai, dù em có xa tôi. Xin hãy nhớ nhau trong lời nguyện cầu. Tôi luôn cầm giữ và trân quý niềm hạnh-phúc này dù rất mong manh, nhỏ nhoi, ngắn ngủi. Nhưng nó là một chất sống bền bỉ cho năm tháng còn lại của một đời người như tôi. Rất cảm ơn em cho một lần về thăm quê-hương hôm nay và mãi mãi sau này.”
Tôi trở lại Cali trong một ngày nắng ấm, nước mắt bỗng chan hòa. Tiếng anh như còn văng vẳng bên tai tôi:
“Niềm hạnh-phúc của những mảnh đời bất hạnh như chúng tôi là khi biết ra rằng từ nghìn trùng xa ấy, vẫn còn có em , tôi cũng luôn tin-tưởng là vẫn còn có những trái tim biết thổn thức về một quê nhà Việt-Nam hôm nay với bao cảnh lầm than và bao niềm trắc ẩn, vẫn còn có những tấm lòng muốn xây dựng lại quê-hương Việt-Nam dấu yêu của chúng ta…”./.
Tác giả “Chân Quê”