Hôm nay,  

Khủng Hoảng Vì Hốt Hoảng

14/02/200800:00:00(Xem: 9289)

RFA & Nguyễn Xuân Nghĩa

 ...khi tiêu thụ tại Hoa Kỳ sút giảm thì xuất khẩu của Việt Nam cũng giảm và nạn nhập siêu sẽ tăng...

Trong những tháng vừa qua, cả thế giới đều ưu lo về tình hình kinh tế Hoa Kỳ, vì sợ rằng kinh tế Mỹ mà bị suy trầm thì mình cũng bị ảnh hưởng. Diễn đàn Kinh tế đai2ì RFA tìm hiểu về hiện tượng tâm lý ấy qua phần trao đổi sau đây cùng kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa, do Việt Long thực hiện hầu quý thính giả.

 Hỏi: Thưa ông Nguyễn Xuân Nghĩa, từ tháng Tám năm ngoái và nhất là qua mấy đợt cắt giảm lãi suất liên tục tại Hoa Kỳ vào đầu năm nay, cả thế giới đều e rằng kinh tế Mỹ có thể bị suy trầm với ảnh hưởng lan rộng đến các nước khác. Ông đã nói qua về đề tài này trong một số kỳ trước, nhưng gần đây các nước đã có những phản ứng cụ thể trên địa hạt kinh tế, liên quan đến vấn đề này. Vì thế chúng tôi đề nghị là ta lại cùng tìm hiểu sâu xa hơn về đề tài vì sao kinh tế Mỹ lại có tầm quan trọng lớn lao như vậy với kinh tế thế giới"

- Đây là một thắc mắc chính đáng và việc mình tìm hiểu về đề tài này sẽ có lợi cho Việt Nam khi thẩm định ảnh hưởng của Hoa Kỳ và quyết định về chiến lược kinh tế của mình.

 Nói về sức sản xuất thì kinh tế Hoa Kỳ có sức sản xuất chỉ bằng từ 22 đến 25% của sản lượng địa cầu, một sức nặng có giảm sút nhiều so với mấy thập niên về trước khi tổng sản lượng nội địa, gọi tắt là GDP, của Mỹ chiếm một phần ba tổng sản lượng thế giới.

 Con số GDP đó chỉ ra sức sản xuất của một nền kinh tế, bao gồm tất cả mọi hàng hoá và dịch vụ được sản xuất trong một thời khoảng nhất định, thí dụ là một năm, trên một lãnh thổ nhất định như của một quốc gia, bất kể tới quốc tịch của nhà sản xuất. Về thống kê thì đó là tổng số của tiêu thụ, đầu tư gộp, công chi ngân sách và kết số của cán cân thương mại, tức là số xuất khẩu trừ đi nhập khẩu, trong một tài khóa, là một năm kế toán.

Nhưng Hoa Kỳ sở dĩ có ảnh hưởng lớn tới sinh hoạt kinh tế vì hai yếu tố. Thứ nhất, tiêu thụ tại Mỹ chiếm tới hơn hai phần ba của tổng sản lượng GDP, nên sức tiêu thụ của Mỹ trở thành lực kéo cho nền kinh tế nào bán hàng cho Mỹ. Thứ hai, nhiều nền kinh tế lại giàng bộ máy sản xuất của mình vào kinh tế Mỹ qua xuất nhập khẩu và đầu tư, hoặc qua chính sách ngoại hối, tức là quy định tỷ giá đồng bạc của mình từ đồng Mỹ kim.

Hậu quả là dù chỉ sản xuất hơn 20% sản lượng thế giới, kinh tế Mỹ vẫn ảnh hưởng tới 60% vào đà tăng trưởng của kinh tế thế giới. Thí dụ như kinh tế thế giới mà tăng trưởng bình quân chừng 5% một năm thì kinh tế Mỹ ảnh hưởng tới 3%. Tiêu thụ tại Mỹ mà giảm là sẽ ghìm sức sản xuất của các nước khác theo tỷ lệ đó, nếu các xứ này lệ thuộc vào Mỹ.

 Hỏi: Nhưng vì sao gần đây dư luận thế giới lại có vẻ hốt hoảng về những gì xảy ra tại Mỹ trong khi nhiều quốc gia, kể cả Việt Nam hay Trung Quốc, đã đạt tốc độ tăng trưởng khá cao, tưởng như đã có thể tách rời khỏi sức hút của kinh tế Hoa Kỳ" Trong khi đó thì ông Lý Quang Dịêu ở Singapore tuyên bố là châu Á sẽ không bị rơi vào suy trầm vì kinh tế ở Mỹ"   

 - Chỉ vì một hiện tượng tôi xin tạm gọi là quên trí nhớ, tức là có ký ức rất mỏng, đi cùng tật chủ quan và ưa hốt hoảng! 

Trong năm năm liền, nhiều quốc gia đã có tốc độ tăng trưởng rất cao và buôn bán với nhau rất nhiều nên tưởng rằng cái trớn sản xuất ấy đã giúp mình bay khỏi quỹ đạo Mỹ. Như trong năm ngoái, khi sản xuất tại Hoa Kỳ bắt đầu sút giảm nhẹ từ quý ba trở đi thì kinh tế các nước vẫn tăng trưởng mạnh. Người ta gọi đó là hiện tượng "tách rời khỏi Mỹ", nôm na là ra khỏi trạng thái lệ thuộc vào kinh tế Mỹ, nên kinh tế Hoa Kỳ có bị suy trầm thì cũng không gây suy trầm cho thế giới. Qua tới năm nay thì thiên hạ có phản ứng trái ngược, và phải nói là thái quá, từ phía Hoa Kỳ lẫn thế giới ngoài Hoa Kỳ. Người ta đang lo sợ là Mỹ mà hắt hơi thì xứ khác lại bị cảm mạo.

 Hỏi: Ông vui lòng giải thích thêm nữa theo khía cạnh kinh tế, thay vì trên khía cạnh tâm lý đưa đến cả chủ quan lẫn hốt hoảng vân vân. Câu hỏi là vì sao kinh tế Hoa Kỳ lại có hiệu ứng mạnh như vậy"

- Ta cần nhìn rõ hiện tượng tạm gọi là "chuyển lực", là bốn yếu tố khiến sự thăng trầm tại Mỹ có thể kéo theo sự thịnh suy của xứ khác.

 Đầu tiên là qua trao đổi kinh tế gồm có buôn bán và đầu tư tại các nước có quan hệ với kinh tế Hoa Kỳ. Tiêu thụ tại Mỹ mà giảm thì xuất khẩu vào Mỹ cũng sụt và doanh lợi đầu tư của xứ khác vào Mỹ cũng giảm theo. Thí dụ như Việt Nam đạt xuất siêu một tỷ Mỹ kim với Mỹ là nhờ bán nhiều hơn mua của Hoa Kỳ; khi tiêu thụ tại Hoa Kỳ sút giảm thì xuất khẩu của Việt Nam cũng giảm và nạn nhập siêu sẽ tăng, với ảnh hưởng trên tỷ giá đồng bạc của Việt Nam.

 Bộ phận chuyển lực thứ hai là luồng trao đổi tài chính giữa các nước với nhau, như đầu tư hay vay mượn của nhau. Vụ khủng hoảng tín dụng địa ốc do trái bóng tín dụng loại thứ cấp bị bể tại Mỹ đã kéo theo khủng hoảng tín dụng tại các xứ khác, thí dụ như Âu châu, khiến tín dụng khan hiếm có thể đánh sụt đầu tư và sản xuất ở mấy xứ đó.

Thứ ba là khi sản xuất bị đình đọng và xuất khẩu sút giảm, số cầu về nguyên nhiên vật liệu trên thế giới, thí dụ như dầu thô, kim loại hay nông phẩm cũng có thể bị sụt và điều ấy ảnh hưởng tới giá cả thương phẩm, vốn đã tăng rất mạnh trong nhiều năm qua, và có thể đánh sụt lợi tức của các nước xuất cảng thương phẩm.

 Sau cùng là khi kinh tế toàn cầu bị giao động mạnh do ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp từ Hoa Kỳ thì nhiều nhược điểm kinh tế trong từng nước cũng gây ra vấn đề, như cơ thể yếu kém thì dễ bị nhiễm bệnh khi khí trời thay đổi. Cụ thể là khả năng quản lý vĩ mô yếu kém tại Việt Nam có thể bị chấn động mạnh khi kinh tế Mỹ bị suy trầm. Hoặc Âu châu cũng có nạn suy sụp gia cư mà chẳng vì buôn bán loại tín dụng thứ cấp với Hoa Kỳ

 Hỏi: Từ bốn yếu tố chuyển lực ấy, kinh tế thế giới sẽ ra sao do hiệu ứng Hoa Kỳ"

 - Do cấu trúc trao đổi kinh tế giữa từng quốc gia hay từng khối kinh tế với nhau, kinh tế Hoa Kỳ có ảnh hưởng mạnh tới sự thịnh suy của các nền kinh tế Nhật Bản, Âu châu, vốn cũng đang có vấn đề nội tại của họ. Sau đó mới tới kinh tế của Trung Nam Mỹ mà ta cứ gọi là Mỹ châu La tinh. Ở vòng ngoài, với hiệu ứng nhẹ hơn, là các nền kinh tế Á châu - không kể Nhật Bản - Liên bang Nga và Trung Đông. Vì vậy, ảnh hưởng trực tiếp về sự thăng trầm của kinh tế Mỹ không nhất thiết đã là toàn cầu. Nhưng ta cũng phải nói tới ảnh hưởng gián tiếp.

 Đó là kinh tế Mỹ, Nhật và Âu châu hiện đang là ba nền kinh tế mạnh nhất thế giới, nên nếu hai đầu máy Nhật Bản và Âu châu mà bị hiệu ứng suy trầm tại Mỹ thì dễ bị thiệt hại nhất vì vấn đề riêng của họ. Khi ba đầu máy đều bị chững thì khả năng sản xuất của các nền kinh tế khác của địa cầu cũng bị ảnh hưởng. Vì vậy mà từ mấy tháng nay, người ta mới ưu lo về hậu quả của những gì xảy ra tại Hoa Kỳ. Mà lý do lo ngại cũng có rất nhiều, kể cả lo ngại sự hốt hoảng thái quá từ khu vực tài chính.

 Hỏi: Ông cho rằng thế giới đang có hiện tượng tâm lý là hốt hoảng thái quá hay sao"

 - Tôi thiển nghĩ rằng sự hốt hoảng đã khởi đầu tại Hoa Kỳ, và như đặc tính chung của mọi phản ứng hốt hoảng là nó dễ lan rộng và có thể gây tai hoạ nếu mình thiếu bình tĩnh. 

Trên diễn đàn này, chúng ta đã nhiều lần nói về định nghĩa của từng hiện tượng kinh tế mà ta vẫn cần nhắc lại để thấy ra mức độ trầm trọng của vấn đề và để khỏi bị hốt hoảng. Căn cứ trên định nghĩa của Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF thì suy trầm hay recession xảy ra khi đà tăng trưởng sản xuất có sụt giảm trong hai quý liền, tức là có tăng mà chậm hơn. Nói chung, các kinh tế gia trên thế giới đều áp dụng định nghĩa ấy.

 Riêng Mỹ áp dụng một định nghĩa rắc rối hơn của một tổ chức độc lập là Cục Nghiên cứu Kinh tế Quốc gia NBER là "khi sinh hoạt kinh tế sút giảm đáng kể trong cả nền kinh tế, kéo dài qua nhiều tháng, thường được phản ảnh qua GDP, số lợi tức thực tế, thất nghiệp, sản lượng công nghiệp và phân phối sỉ và lẻ". Định nghĩa này mơ hồ về thời gian mà lại chi tiết về hậu quả. Tuy nhiên, dù theo định nghĩa nào đi nữa thì suy trầm chỉ là tăng trưởng giảm sút trong nhiều tháng và thực tế là một hiện tượng tự nhiên của chu kỳ kinh doanh. Thông thường thì các nước theo kinh tế thị trường vẫn thấy rằng sáu năm lại gặp một lần suy trầm và tại Mỹ thì từ nửa thế kỷ nay, bình quân mỗi đợt suy trầm không dài quá 10 tháng.

 Nặng hơn suy trầm là nạn suy thoái, tức là không có tăng trưởng nhẹ hơn mà là suy sụp sản xuất. Nặng hơn nữa thì có khủng hoảng là suy thoái trong nhiều lãnh vực và lây lan qua nhiều quốc gia. Nếu không chịu tìm hiểu và cứ nghe nói ẩu rằng kinh tế suy thoái hay khủng hoảng trong khi vẫn chưa bị suy trầm thì chính là phản ứng tâm lý hốt hoảng ấy mới gây ra khủng hoảng, là điều đang xảy ra tại Hoa Kỳ và có thể lan qua xứ khác.

 Hỏi: Ông nêu ra một nhận xét có vẻ mâu thuẫn trong khi cả thế giới đang nói đến nạn suy trầm hay suy thoái tại Hoa Kỳ. Ông có thể giải thích cho rõ hơn được không"

 - Ta có hiện tượng gọi là quán tính của nhận thức, là chỉ ý thức được sự thể sau khi xảy ra.

 Cụ thể là chỉ biết là kinh tế bị suy trầm sau khi thu thập thống kê về lợi tức, thất nghiệp, sản xuất hay phân phối của sớm nhất là ba tháng về trước. Nhiều nhà kinh tế có thấy rằng biết như vậy là quá chậm nên phải tìm cách dự đoán trước khi tai hoạ xảy ra. Mà cũng biết rằng mình có thể dự đoán sai. Thí dụ như nếu căn cứ trên số thất nghiệp gia tăng dù sao cũng rất nhẹ tại Mỹ trong tháng Giêng vừa rồi thì kinh tế Mỹ có thể bị rủi ro suy trầm với xác suất chừng 6%, so với xác suất suy trầm trong tháng 12 là hơn 35%. Tức là dường như trận bão đã qua, và các tổ hợp tài chính đã chấn chỉnh lại cơ cấu tài trợ của họ.

 Tuy nhiên, từ đầu năm ngoái, báo chí Mỹ đã nói đến sự đình đọng của thị trường gia cư, mối nguy của loại tín dụng thứ cấp sub-prime, đến tháng Tám thì trái bóng tín dụng ấy bể kéo theo sự lỗ lã của nhiều tổ hợp tài chính thế giới. Sự hốt hoảng của thị trường tài chính mới lây lan qua thị trường chứng khoán và dội ngược về giới sản xuất và tiêu thụ khiến Ngân hàng Trung ương Mỹ phải đột ngột và liên tiếp hạ lãi suất rất mạnh trong mấy tháng qua. Đã vậy, người ta còn thấy rằng từ tháng Tám năm 2001 đến nay, kinh tế Mỹ chưa bị suy trầm nên hẳn đã thầm nghĩ rằng sắp đến kỳ. Tâm lý chờ đợi tin xấu như vậy còn bị trùng vào một năm tranh cử khi mà nhiều đại diện dân cử cần chứng tỏ với cử tri mối quan tâm kinh tế của mình và nói đến nhu cầu cấp cứu kinh tế để tỏ ra thân dân.

 Người Mỹ nói chung thường có đặc tính văn hóa là lạc quan thái quá mà cũng ưa hốt hoảng bậy khiến lãnh đạo dễ có phản ứng cũng thái quá. Giờ đây thì có thể là những lời báo động đã có tác dụng, tức là gây không khí hốt hoảng và có khi gây ra suy trầm thật vì ai ai cũng sợ bị thất nghiệp, ế ẩm và bèn cắt giảm chi tiêu để phòng ngừa!

 Hỏi: Và bây giờ, thế giới đang chuẩn bị đối phó với nạn khủng hoảng vì hốt hoảng khởi đi từ Hoa Kỳ"

 - Thưa đúng như vậy vì ngoài hai nền kinh tế gắn bó nhất với Mỹ là Canada và Mexico - bị ảnh hưởng nặng nhất qua đà sút giảm tiêu thụ và nhập khẩu của Mỹ - các nền kinh tế khác cũng có bị nhưng nhẹ hơn. Tuy nhiên ảnh hưởng tâm lý bất lợi của lời báo động ấy cũng chi phối quyết định đầu tư sản xuất của xứ khác và xứ nào càng có nhiều nhược điểm nội tại thì càng bị nguy ngập hơn.

 Trường hợp rõ rệt là nhược điểm nội tại của kinh tế Nhật Bản có thể vừa bị suy trầm vừa lo lạm phát. Trong khi ấy, Âu châu cũng bị nạn bể bóng đầu tư trên thị trường gia cư và cũng có hệ thống tín dụng thứ cấp mà không do nhập khẩu từ Hoa Kỳ. Nạn suy trầm tại Nhật Bản và Âu châu có thể còn nguy kịch hơn tại Mỹ. Đã thế, họ còn có khả năng ứng phó rất hẹp vì lãi suất tại Nhật đã mấp mé số không nên khó hạ, và vì tổ chức kinh tế chính trị của Liên hiệp Âu châu và của Ngân hàng Trung ương Âu châu không cho phép họ linh động áp dụng các biện pháp cấp cứu. Ba khối kinh tế đầu máy là Mỹ, Nhật, Âu mà lao đao thì lợi nhuận và đầu tư của doanh nghiệp cũng sút giảm.

 Vì vậy, thế giới vẫn còn lệ thuộc nhiều vào những thăng trầm tại Mỹ, kể cả hiện tượng lạc quan tếu lẫn tâm lý hốt hoảng bậy. Càng có vấn đề nội tại mà càng lệ thuộc vào sự thăng trầm trên thị trường Hoa Kỳ là càng dễ mang họa. Trong một kỳ sau, tôi mong là chúng ta sẽ có cơ hội đề cập tới trường hợp Việt Nam.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
Hí viện Crocus City Hall, cách Kremlin 20 km, hôm 22 tháng O3/2024, đang có buổi trình diển nhạc rock, bị tấn công bằng súng và bom làm chết 143 người tham dự và nhiều người bị thương cho thấy hệ thống an ninh của Poutine bất lực. Trước khi khủng bố xảy ra, tình báo Mỹ đã thông báo nhưng Poutine không tin, trái lại, còn cho là Mỹ kiếm chuyện khiêu khích...
Khi Việt Nam nỗ lực thích ứng với môi trường quốc tế ngày càng cạnh tranh hơn, giới lãnh đạo đất nước đã tự hào về “chính sách ngoại cây giao tre” đa chiều của mình. Được Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), thúc đẩy từ giữa thập niên 2010, ý tưởng là bằng cách cân bằng mối quan hệ của Việt Nam với các cường quốc – không đứng về bên nào, tự chủ và thể hiện sự linh hoạt – nó có thể duy trì sự trung gian và lợi ích của mình, đồng thời tận dụng các cơ hội kinh tế do tình trạng cạnh tranh của các đại cường tạo ra
Cộng sản Việt Nam khoe có tự do tôn giáo ở Việt Nam, nhưng Hoa Kỳ và Thế giới nói “rất hạn chế”, tùy nơi và từng trường hợp. Tình trạng này đã giữ nguyên như thế trong những báo cáo trước đây của cả đôi bên. Nhưng tại sao Hoa Kỳ vẫn liệt Việt Nam vào danh sách phải “theo dõi đặc biệt”...
Đến giữa tháng 3 năm nay, hầu hết chúng ta đều thấy rõ, Donald Trump sẽ là ứng cử viên tổng thống của đảng Cộng Hòa và Joe Biden là ứng cử viên tổng thống của Democrat. Ngoại trừ vấn đề đột ngột về sức khỏe hoặc tử vong, có lẽ sẽ không có thay đổi ngôi vị của hai ứng cử viên này. Hai lão ông suýt soát tuổi đời, cả hai bộ não đang đà thối hóa, cả hai khả năng quyết định đều đáng nghi ngờ. Hoa Kỳ nổi tiếng là đất nước của những người trẻ, đang phải chọn lựa một trong hai lão ông làm người lãnh đạo, chẳng phải là điều thiếu phù hợp hay sao? Trong lẽ bình thường để bù đắp sức nặng của tuổi tác, con đường đua tranh vào Tòa Bạch Ốc, cần phải có hai vị ứng cử viên phó tổng thống trẻ tuổi, được đa số ủng hộ, vì cơ hội khá lớn phải thay thế tổng thống trong nhiệm kỳ có thể xảy ra. Hơn nữa, sẽ là ứng cử viên tổng thống sau khi lão ông hết thời hạn bốn năm. Vị trí và vai trò của nhân vật phó này sẽ vô cùng quan trọng trong lần tranh cử 2024.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.