Hôm nay,  

Hốt Hoảng Vì Khủng Hoảng

23/01/200800:00:00(Xem: 11587)

Kinh tế Mỹ khó tránh nổi nạn suy trầm vì dư luận Mỹ đã hốt hoảng...

Bóng ma suy trầm kinh tế đang ám ảnh thế giới. Trong hai ngày liên tiếp, các thị trường chứng khoán lớn nhất từ Á qua Âu về tới Mỹ châu đều cùng tuột giá, còn nghiêm trọng hơn cơn chấn động sau vụ khủng bố năm 2001 tại Hoa Kỳ. Người ta sợ suy trầm kinh tế tại Mỹ có thể lây lan khắp nơi, mặc dù Tổng thống George W. Bush vừa đề nghị kế hoạch kích cầu kinh tế lên tới 140 tỷ Mỹ kim. Diễn đàn Kinh tế đài RFA sẽ tìm hiểu về nguy cơ ấy, qua cuộc trao đổi cùng kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa do Việt Long thực hiện sau đây…

Hỏi: Xin kính chào ông Nguyễn Xuân Nghĩa. Kể từ Thứ Hai 21, trong mấy ngày đầu tuần, các thị trường chứng khoán trên thế giới đều theo nhau sụt giá, sau khi Tổng thống Mỹ đề nghị với Quốc hội một chương trình kích cầu kinh tế thị giá khoảng 140 tỷ. Lý do được nêu ra là các thị trường hoài nghi sự công hiệu của biện pháp cấp cứu của Chính quyền Hoa Kỳ và kinh tế Mỹ có thể bị suy trầm khiến thế giới bị lây hoạ. Qua đến Thứ Ba thì Ngân hàng Trung ương Mỹ đã

Vì lý do trên, chương trình chuyên đề tuần này đề nghị là chúng ta sẽ lần lượt tìm hiểu về nguy cơ suy trầm, về chương trình kích thích kinh tế của Hoa Kỳ và về rủi ro lây lan qua các nền kinh tế khác. Câu hỏi đầu tiên ở đây là về hiện tượng suy trầm. Đó là gì"

Suy trầm, hay "recession" nói theo Anh ngữ, là khi đà tăng trưởng sản xuất bị sút giảm, tức là có tăng trưởng mà thấp hơn. Quy ước do Quỹ Tiền tệ Quốc tế IMF đưa ra và nhiều nơi áp dụng chung là suy trầm xảy ra khi đà tăng trưởng sản xuất giảm sút liền trong ít nhất hai quý, là hai tam cá nguyệt hoặc sáu tháng liên tiếp. Hoa Kỳ thì lại theo một định nghĩa mơ hồ hơn, đó là "khi sản xuất giảm sút một cách đáng kể trong nhiều lãnh vực và trong nhiều tháng liền." Nặng hơn thế, khi sản xuất không tăng, dù chậm hơn trước, mà còn giảm thì người ta có nạn suy thoái. Khi suy thoái kéo dài và lan rộng qua lãnh vực khác hay thị trường khác thì người ta bị nạn khủng hoảng kinh tế.

Cứ theo định nghĩa phổ thông ấy thì ta thấy rằng suy trầm là hiện tượng đã xảy ra mà người ta chỉ biết được sau khi kiểm chứng được thống kê về sản xuất trong quá khứ. Vì vậy, ta mới gặp một nan đề là chỉ có thể dự báo với xác suất cao hay thấp của một vụ suy trầm khi nó đã manh nha xảy ra từ một hai tháng trước.

Hỏi: Trên diễn đàn này, qua các chương trình ngày 25 tháng Chín, rồi 14 và 24 tháng 12 vừa qua, ông đã có nói tới rủi ro suy trầm ấy, và cứ theo tình hình thị trường trong mấy ngày vừa qua thì có lẽ nạn suy trầm đã xảy ra, hoặc có khả năng xảy ra với xác suất cao"

Tôi xin giải thích đôi chút, rằng người ta có nghiệm thấy từ lịch sử kinh tế thị trường là sau một giai đoạn tăng trưởng bình quân là sáu năm thì sinh hoạt kinh tế có thể đình đọng hay suy trầm và gọi đó chu kỳ kinh doanh bình. Từ hơn nửa thế kỷ nay, nạn suy trầm như vậy tại Hoa Kỳ thường kéo dài trung bình chừng 10 tháng. Lần trước, kinh tế Mỹ bị suy trầm là từ tháng Ba đến tháng 11 năm 2001, sau khi đã bị vụ khủng bố 9-11. Từ giai đoạn ấy tới nay, Hoa Kỳ lại lâm chiến, dầu thô lại tăng giá gấp ba, đồng đô la sụt giá phân nửa so với các ngoại tệ mạnh khác, và từ đầu năm ngoái còn bị khủng hoảng tín dụng vì loại tín dụng thứ cấp hay sub-prime trên thị trường địa ốc. Cho nên, nếu suy trầm có xảy ra tại Mỹ thì chẳng nên ngạc nhiên. Ăn thua là nặng hay nhẹ và dài hay ngắn mà thôi.

Hỏi: Nếu nhiều người đã có thể đoán trước là suy trầm có thể xảy ra theo chu kỳ như vậy thì vì sao giới hữu trách lại không ngăn trước được"

Đây là câu hỏi rất lý thú vì cho thấy nhiều khía cạnh phức tạp của kinh tế thị trường.

Thứ nhất, kinh tế học hay cả kinh toán học cũng không là khoa học chính xác và mọi dự đoán đều có thể sai, chỉ có các nhà nước tập trung quản lý kinh tế mới tưởng rằng mình biết hết và có thể ứng phó được hết mọi chuyện. Đã thế, sau khi đã thu thập thống kê kinh tế của tháng trước, người ta còn phải duyệt lại và điều chỉnh thì mới có một mô tả tạm chính xác về quá khứ hầu dự báo tương lai, với ý thức là dự báo ấy vẫn có thể sai.

Thứ ba, quan trọng nhất, kinh tế xuất phát từ tâm lý của con người, từ giới tiêu thụ đến nhà sản xuất. Nếu chỉ dự đoán là kinh tế có thể bị suy trầm mà tung biện pháp chặn trước thì người ta có thể gây hốt hoảng cho thị trường, là điều có thể đang xảy ra, hoặc còn gây tác dụng ngược, là thổi bùng nạn lạm phát, vốn cũng là một mối lo đáng kể tại Mỹ.

Thứ tư, một số người còn quan niệm rằng thị trường có sự thăng giáng tự nhiên và cần thiết của chu kỳ kinh doanh. Nếu mình chủ quan duy ý chí can thiệp vào thị trường thì có khi còn gây họa nặng hơn. Một thí dụ nổi tiếng là sau vụ sụt giá cổ phiếu tại Mỹ năm 1929, chính là các biện pháp can thiệp của Chính quyền Hoa Kỳ mới gây ra khủng hoảng rồi tổng khủng hoảng từ 1929 đến 1933, một nguyên nhân xa của Thế chiến II. Cho nên, dù dự báo với mức độ chính xác nào đó chỉ có thể kiểm chứng về sau, người ta cũng cần thận trọng trong biện pháp đối phó để không gây tác dụng phụ hay tác dụng ngược!

Hỏi: Bây giờ ta bước qua phần hai, chương trình kích thích kinh tế mà Tổng thống Bush đã đề nghị hôm Thứ Sáu 18 vừa qua. Vì sao các thị trường thế giới lại có vẻ hoài nghi với kết quả của chương trình ấy nên cổ phiếu mới sụt giá đồng loạt vào ngày Thứ Hai và đến Thứ Ba thì Ngân hàng Trung ương Mỹ lại đột ngột cắt lãi suất rất mạnh"

Thông thường, khi kinh tế suy trầm vì sản xuất sút giảm, người ta có biện pháp tiền tệ là hạ lãi suất cho tiền rẻ hơn, lưu hành nhiều hơn để kích thích tiêu thụ và nâng đà sản xuất. Đây là biện pháp có hiệu quả sớm nhất. Kế đó là biện pháp thuế vụ là bơm thêm tiền vào kinh tế cũng để kích thích tiêu thụ, qua các mục tăng chi có hiệu quả nhanh hay chậm tùy loại. Thứ ba là loại biện pháp về cơ chế là giải toả ách tắc để nâng đỡ đầu tư và sản xuất, với hiệu quả còn chậm hơn nữa, có khi vài năm sau mới thấy.

Từ tháng Tám năm ngoái, Ngân hàng Trung ương Mỹ đã ba lần hạ lãi suất ngắn hạn, tổng cộng 100 điểm, tức là 1%, để giảm bớt mối nguy ách tắc tín dụng sau vụ khủng hoảng thị trường sub-prime. Ngày hôm qua họ bất ngờ hạ thêm 75 điểm ở ngoài phiên định kỳ dự trù vào ngày 30 tới và đến ngày đó có khi còn hạ thêm 25 điểm nữa. Đó là về biện pháp tiền tệ mà trong chương trình phát thanh hồi tháng Chín chúng ta đã nói tới. Với lãi suất liên ngân hàng hiện là 3,50% thì Mỹ còn có thể hạ lãi suất được nhiều, khác với Ngân hàng Trung ương Nhật nay có lãi suất là 0,50% - miễn là biện pháp nới lỏng tiền tệ không thổi bùng lạm phát vì bơm quá nhiều tiền vào kinh tế.

Hỏi: Thế chương trình của Tổng thống Bush thuộc về lãnh vực thuế vụ phải không"

Ngân hàng Trung ương Mỹ là định chế độc lập, có quyền quyết định về chính sách tiền tệ và tín dụng, và chỉ báo cáo định kỳ cho Quốc hội chứ không do Hành pháp hay Lập pháp chỉ huy chính là vì e ngại chính trị chi phối chuyện tiền bạc của dân chúng. Còn lại, Tổng thống có thể đề nghị loại biện pháp thuế vụ hoặc giải toả cơ chế, với sự đồng ý phê chuẩn của Quốc hội.

Tuần qua, sau khi tham khảo ý kiến của lãnh đạo Quốc hội, Tổng thống Bush đề nghị một chương trình kích cầu gồm có bốn điểm chính là 1) nhất thời trả lại một số tiền thuế cho dân có thêm tiền chi tiêu, 2) nhất thời mở rộng việc trợ cấp thất nghiệp, 3) gia tăng thành phần được trợ cấp lương thực, và 4) là nâng mức khấu hao hay chiết cựu cho doanh nghiệp có thêm hiện kim tiền mặt trong việc đầu tư và sản xuất. Kết quả còn do Quốc hội quyết định và có thể là một khoản tiền chừng 140 tỷ Mỹ kim bơm vào nền kinh tế.

Hỏi: Một khoản tiền như vậy là chưa đủ hay sao mà các thị trường tài chính lại thất vọng và tuột giá liên tiếp"

Tổng sản lượng GDP của Mỹ trong năm qua được ước lượng là gần 14.000 tỷ đô la, chính xác là 13.700 tỷ, khoản tiền kích cầu này trị giá 140 tỷ bằng 1% của GDP thì không phải là nhỏ như dư luận nói. Nhưng vì nó không là liều thuốc đúng bệnh đúng thời nên mới gây thất vọng.

Hỏi: Ông có thể giải thích điều ấy được rõ hơn hay không, thế nào là đúng thời, đúng bệnh"

Thứ nhất là về tính chấp kịp thời, thì biện pháp này có khi được áp dụng quá trễ.


Khi kinh tế Mỹ bị suy trầm năm 2001, cũng chính Tổng thống Bush đã đề nghị trả thuế lại cho mỗi người vài trăm mà Quốc hội mất năm tháng mới ban hành thành luật và khi chi phiếu in ra gửi tới từng nhà vào tháng Chín năm đó thì kinh tế bắt đầu ra khỏi suy trầm, và tác dụng của biện pháp ấy chỉ lan toả một năm sau. Năm nay, dù Quốc hội có cấp tốc duyệt xét và đồng ý với đề nghị của Tổng thống thì cũng còn mất nhiều tuần, vì nhiều vị đại diện dân cử còn lo đi tranh cử. Và đúng lúc này, nhân viên cơ quan thuế vụ liên bang IRS và bộ Ngân khố lại đang ở giữa mùa khai thuế nên sớm lắm việc cấp phát chi phiếu giảm thuế cũng chỉ hoàn thành vào tháng Sáu. Tức là có thể quá trễ, và chắc chắn là chậm công hiệu hơn biện pháp hạ lãi suất.

Hỏi: Theo như ông trình bày thì liều thuốc này có khi lại còn không đúng bệnh"

Tôi thiển nghĩ rằng đó chỉ là liều thuốc gây mê trong mùa tranh cử thôi. Nếu vấn đề quả là sự suy sụp của thị trường gia cư và vụ bể bóng tín dụng thứ cấp sub-prime thì vì sao Chính quyền, là Hành pháp và Quốc hội, không giải quyết thẳng vào vấn đề ấy mà lại trả thuế cho dân trong có một lần" Lý do là biện pháp hời hợt ấy có hy vọng được Quốc hội chấp thuận mau lẹ vì cuộc tranh cử vào tháng 11 này, vì vậy mới có vẻ mị dân.

Thuần về kinh tế, khi kinh tế sa sút, một hộ gia đình có hai vợ chồng khai thuế lợi tức mà được trả lại chừng 1.200 đồng thì họ sẽ không xài ngay hay xài hết, mà cố để dành hầu có thể ứng phó với những khó khăn trước mắt. Vì vậy, tác dụng kích cầu có thể công hiệu chậm và nhất là rất ít. Thứ hai, khi mở rộng trợ cấp thất nghiệp thì người lãnh tiền trợ cấp lâu hơn lại càng thấy dễ thở hơn nên… chậm đi kiếm việc hơn. Chồng mà có thêm trợ cấp thất nghiệp thì vợ có thể đi làm ít giờ hơn, là điều các nhà nghiên cứu kinh tế đều thấy ra mà giới chính trị lại ít dám nói tới vì sợ mất lòng cử tri trong một mùa tranh cử.

Hỏi: Chúng ta bước qua câu hỏi cuối. Nếu kinh tế Mỹ bị suy trầm thì kinh tế các nước sẽ bị ảnh hưởng như thế nào"

Kinh tế Mỹ khó tránh nổi nạn suy trầm vì dư luận Mỹ đã hốt hoảng do hàng loại tin xấu được loan truyền làm lượng hàng bán lẻ sa sút nặng trong tháng 12 và sẽ còn sa sút trong tháng Giêng này. Mà tiêu thụ lại chiếm gần 70% tổng sản lượng Mỹ, khi dân Mỹ bi quan và bớt chi tiêu thì suy trầm càng dễ xảy ra. Khi suy trầm xảy ra, tiêu thụ tại Mỹ sẽ giảm, nhập khẩu vào Mỹ cũng giảm theo. Kinh tế càng sống nhờ vào thị trường Hoa Kỳ thì càng bị ảnh hưởng nặng. Mặc dù chỉ sản xuất ra hơn 27% tổng sản lượng của thế giới, kinh tế Hoa Kỳ ảnh hưởng tới 60% vào đà tăng trưởng của kinh tế thế giới, nên suy trầm tại Mỹ dễ kéo theo suy trầm của các nước khác. Bây giờ là sự vận hành của quy luật hốt hoảng, là trường hợp đáng lo, chứ về thực chất thì nếu kinh tế Mỹ có suy trầm thì chỉ bị nhẹ và sẽ không kéo dài.

Người ta cứ tưởng rằng Đông Á hay các nền kinh tế mới nổi nay đã có thể tách rời khỏi nhịp độ tăng trưởng tại Hoa Kỳ. Sự thật lại chưa lạc quan như vậy, điển hình là Trung Quốc Ngân hàng BoC, một đại gia của Trung Quốc, đang chuẩn bị kết số bị lỗ gần tám tỷ Mỹ kim trong vụ sub-prime tại Mỹ, và đây không phải là ngân hàng duy nhất của xứ này đã mất tiền tại Mỹ. Nhiều nước Á châu đang bị lạm phát mạnh có khi còn bị suy trầm vào cuối năm nay, là một giả thuyết không mấy lạc quan cho Việt Nam. Khi đó, trái bóng nào cũng bể và tiền lại chảy ngược về Mỹ. Chúng ta sẽ còn cơ hội trở lại chuyện này nay mai.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Đảng CSVN hay nói “Trí thức là “nguyên khí của quốc gia”, làm hưng thịnh đất nước, rạng rỡ dân tộc*; “Trí thức là vốn liếng quý báu của Dân tộc”; hay “Thanh niên là rường cột của nước nhà” , nhưng tại sao nhiều người vẫn ngại đứng vào hàng ngũ đảng? Lý do vì đảng chỉ muốn gom Trí thức và Thanh niên “vào chung một rọ để nắm tóc”...
Tây Bắc hay Tây Nguyên thì cũng chừng đó vấn đề thôi: đất đai, tôn giáo, chủng tộc… Cả ba đều bị nhũng nhiễu, lũng đoạn tới cùng, và bị áp chế dã man tàn bạo. Ở đâu giới quan chức cũng đều được dung dưỡng, bao che để tiếp tục lộng quyền (thay vì xét sử) nên bi kịch của Tây Nguyên (nói riêng) và Cao Nguyên (nói chung) e sẽ còn dài, nếu chế độ toàn trị hiện hành vẫn còn tồn tại...
Bữa rồi, nhà thơ Inra Sara tâm sự: “Non 30 năm sống đất Sài Gòn, tôi gặp vô số người được cho là thành công, thuộc nhiều ngành nghề, đủ lứa tuổi, thành phần. Lạ, nhìn sâu vào mắt họ, cứ ẩn hiện sự bất an, lo âu.” “Bất an” có lẽ không chỉ là tâm trạng của người Sài Gòn mà dường như là tâm cảm chung của toàn dân Việt – không phân biệt chủng tộc, giới tính hay giai cấp nào ráo trọi – nhất là những kẻ sắp từ giã cõi trần. Di Cảo của Chế Lan Viên và di bút (Đi Tìm Cái Tôi Đã Mất) của Nguyễn Khải, theo nhận xét của nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn, chỉ là những tác phẩm “cốt để xếp hàng cả hai cửa. Cửa cũ, các ông chẳng bao giờ từ. Còn nếu tình hình khác đi, có sự đánh giá khác đi, các ông đã có sẵn cục gạch của mình ở bên cửa mới (bạn đọc có sống ở Hà Nội thời bao cấp hẳn nhớ tâm trạng mỗi lần đi xếp hàng và không sao quên được những cục gạch mà có lần nào đó mình đã sử dụng).”
Tập Cận Bình tin rằng lịch sử đang dịch chuyển theo hướng có lợi cho mình. Trong chuyến thăm Vladimir Putin tại Matxcơva vào tháng 3 năm ngoái, nhà lãnh đạo Trung Quốc nói với Tổng thống Nga rằng “Ngay lúc này, chúng ta đang chứng kiến một sự thay đổi chưa từng thấy trong 100 năm qua, và chúng ta đang cùng nhau thúc đẩy sự thay đổi ấy.”
Sau 20 năm chiêu dụ Kiều bào về giúp nước không thành công, đảng CSVN lại tung ta Dự án “Phát huy nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngoài phục vụ phát triển đất nước trong tình hình mới” vào dịp Tết Nguyên Đán Giáp Thìn 2024. Đây là lần thứ tư, từ khi có Nghị quyết 36-NQ/TW ngày 26 tháng 3 năm 2004, một Quyết định nhằm mưu tìm đầu tư, hợp tác khoa học, kỹ thuật và tổ chức các Hội, Đoàn người Việt ở nước ngoài, đặt dưới quyền lãnh đạo của đảng CSVN được tung ra...
Khi số lượng di dân vượt biên bất hợp pháp qua biên giới Hoa Kỳ-Mexico tăng cao kỷ lục, câu hỏi quan trọng được đặt ra là: Làm thế nào mà Hoa Kỳ lại rơi vào tình trạng này, và Hoa Kỳ có thể học hỏi những gì từ cách các quốc gia khác ứng phó với các vấn đề an ninh biên giới và nhập cư. Chào đón công dân nước ngoài đến với đất nước của mình là một việc khá quan trọng để giúp cải thiện tăng trưởng kinh tế, tiến bộ khoa học, nguồn cung ứng lao động và đa dạng văn hóa. Nhưng những di dân vào và ở lại Hoa Kỳ mà không có thị thực hoặc giấy tờ hợp lệ có thể gây ra nhiều vấn đề – cho chính bản thân họ và cho cả chính quyền địa phương bởi tình trạng quá tải không thể kịp thời giải quyết các trường hợp xin tị nạn tại tòa án nhập cư, hoặc cung cấp nơi ở tạm thời và các nhu cầu cơ bản khác. Mà tình trạng này hiện đang xảy ra ở rất nhiều nơi ở Hoa Kỳ.
Trên vai những pho tượng trắng trong vườn Lục Xâm Bảo, lá vàng đã bắt đầu rơi lất phất. Mùa Thu Paris thật lãng mạn. Henry Kissinger đi dạo quanh một hồ nhỏ ở ngoại ô gần Rambouillet. Nơi đây từng cặp tình nhân đang nắm tay nhau bên những cành cây la đà bóng hồ. Ông thấy lòng mình nao nao (melancholic) vì sắp tới phiên họp quan trọng nhất với ông Lê Đức Thọ.
Tôi nghe nhiều người tỏ ý bi quan về hiện cảnh cũng như tương lai (đen tối) của Việt Nam. Dân tộc nào, số phận đó. Một đất nước có những người viết sử và làm luật (cỡ) như ông Dương Trung Quốc thì… đen là phải!
Việt Nam bước vào năm Giáp Thìn 2024 với gánh nặng tham nhũng và một đội ngũ “không nhỏ” cán bộ, đảng viên suy thoái đạo đức lối sống. Đó là cảnh báo của người đứng đầu đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng, trong cuộc phỏng vấn đầu năm của Thông Tấn Xã Việt Nam...
Từ thế kỷ thứ ba trước Tây lịch, Triết gia Mạnh Tử (372-289 BC) của Trung Hoa đã nói rằng, “Dân là quý, thứ đến đất nước, rồi tới vua.” Điều đáng nói là Mạnh Tử là người đi theo học thuyết của Nho Gia vốn chủ trương vua là con ông Trời (Thiên tử) được sai xuống nhân gian để trị quốc an dân, vậy mà cũng không thể phủ nhận vai trò quan trọng, nếu không muốn nói là tối quan trọng của người dân. Thời hiện đại, công pháp quốc tế đã nêu ba yếu tố chính hình thành một quốc gia: người dân, lãnh thổ và chính quyền. Trong đó, thật ra người dân chính là yếu tố then chốt quyết định. Lãnh thổ nếu không có dân ở, không có người quản trị thì không phải là đất nước của một dân tộc. Chính quyền từ người dân mà ra, bởi vì trước khi một người ra nắm quyền cai trị đất nước thì người đó phải là một người dân của đất nước ấy. Hơn nữa, sự thịnh suy của một quốc gia nằm trong tay người dân.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.