Hôm nay,  

Nhớ Về Việt Nam - Ký Ức 35 Năm Trước

19/04/201000:00:00(Xem: 8982)

Nhớ Về Việt Nam - Ký Ức 35 Năm Trước

Giáo sư Robert F. Turner

...những người công kích chế độ này đã bị Hà Nội đánh lừa...

Giáo sư Robert F. Turner tốt nghiệp tiến sĩ về cả sư phạm lẫn chuyên môn về luật khoa từ Đại học Luật khoa Virginia School of Law, là nơi mà ông thành lập Trung tâm Nghiên cứu An ninh Luật pháp vào năm 1981. Ông chú ý đến Việt Nam từ khi học Cao học tại Đại học Indiana, với một luận văn dài 450 trang - đoạt giải danh dự - về cuộc chiến Việt Nam và từ khi thường xuyên tranh luận với các lãnh tụ phản chiến trên đất Mỹ. Được động viên vào Lục quân Hoa Kỳ năm 1968, tức là sau trận Mậu Thân, ông Turner tình nguyện qua Việt Nam. Dù là sĩ quan bộ binh, trong hai chuyến phục vụ tại đây, ông làm việc bên toà Đại sứ Hoa Kỳ với nhiệm vụ là Sĩ quan Phụ tá các Chương trình Đặc biệt của Phòng "Bắc Việt và Việt Cộng" trong cơ quan JUSPAO. Từ 1968 đến 1975, ông đã năm lần qua Đông Dương, hoạt động nhiều nơi ở miền Nam Việt Nam và cả Lào cùng Cam Bốt. Ông đang thuyết giảng cho cấp cử nhân đến tiến sĩ về chiến tranh tại Đại học Virginia và Trường Hải quân Hoa Kỳ, nơi ông là Giáo sư Danh dự về Luật pháp Quốc tế. Giáo sư Robert Turner là tác giả hoặc đã biên tập của hơn một chục cuốn sách, kể cả những cuốn nổi tiếng như "Vietnamese Communism", "The Real Lessons of the Vietnam War" và "To Oppose Any Foe".
Ngày 28 tháng Tư tới đây, cùng ba học giả khác của Hoa Kỳ, Giáo sư Robert Turner sẽ là thuyết trình viên trong cuộc Hội luận Quốc tế về cuộc chiến Việt Nam - "The Century Old Vietnam War Puzzle - What are the Missing Pieces"" do Hội Ái Hữu Người Việt Quốc Gia Hải Ngoại tổ chức tại Rose Center của thành phố Westminster. Đề tài tham luận của ông là "Hậu quả của việc Hoa Kỳ bỏ rơi Đông Dương". Để chuẩn bị, ông đã liên lạc với ban tổ chức từ nhiều tháng nay. Trong một điện thư rất dài, Giáo sư Turner có nhắc tới một số kỷ niệm của 35 năm trước... Chúng ta hãy cùng nhau chia sẻ kỷ niệm này, với lời tri ân dành cho nhiều người Mỹ có lòng.
Theo ý tôi, Việt Nam là một cuộc chiến tranh cần thiết.
Tôi có thể bắt đầu bằng mấy lời "amen", ủng hộ quan điểm nhiều người đã đưa ra và có lẽ trình bày câu chuyện tôi đã nói với Bùi Công Tường trên chuyến xe đi từ Bến Tre về Sàigon vào một buổi tối đó khi tôi hỏi anh ta về ông Diệm. Anh ta trả lời là các đảng viên cao cấp (của Đảng Cộng Sản Việt Nam) coi ông Diệm là nhà ái quốc lớn - tương tự như Hồ Chí Minh - nhưng họ phải xuyên tạc với dư luận quần chúng vì ông Diệm không chấp nhận quyền lãnh đạo của Đảng.
Tất nhiên là tôi thấy thoải mái khi trình bày về những gì mình biết.
Tôi đã mất nhiều thời giờ tìm hiểu về những lời cáo buộc chế độ của ông Thiệu là vi phạm nhân quyền (quyền tự do báo chí, bầu cử, chế độ lao tù, v.v...) và có nhiều tấm hình cho thấy là những người công kích chế độ này đã bị Hà Nội đánh lừa. (Tôi có phỏng vấn Linh mục Chân Tín và bà Ngô Bá Thành tại Sàigon vào tháng Năm năm 1974. Đại sứ Graham Martin đã trích dẫn ít nhất một cuộc phỏng vấn này trong buổi điều trần trước Ủy ban Ngoại giao của Quốc hội vào cuối năm đó. Và đấy là một lần hiếm hoi trong hai năm cuối của cuộc chiến mà tôi được thấy ông Martin thật sự mỉm cười).
 Cuối Tháng Tư năm 1975, tôi đang ở trong Toà Đại sứ khi ông Graham Martin bước ra khỏi văn phòng. Thấy tôi ở ngoài, ông mời tôi vào bàn giấy. Ông Đại sứ đóng cửa lại và trong 20-30 phút ông đã "xả ra" những uất ức - phê phán hầu hết mọi người tại thủ đô Washington và nhấn mạnh rằng Hoa Kỳ phải có trách nhiệm tinh thần với người dân miền Nam Việt Nam. Tôi đồng cảm với sự giận dữ của ông, nhưng cũng vui là mình lắng tai cho ông có dịp trút bớt những dồn nén mà cả hai đều cùng chia sẻ. Nhiều người đã đả kích ông, nhưng trong các cuốn sách của tôi, Đại sứ Martin là một vị anh hùng tương đối hiếm hoi của nước Mỹ trong mấy tuần cuối cùng đó.
Nhìn bất cứ nơi nào, tôi thấy Hoa Kỳ đã bội phản những đối tác hay viên chức Việt Nam.
Cơ quan USIA (Thông tin của Toà Đại sứ) đã nói với những người Việt Nam quan trọng nhất về các điểm bốc ở một số nơi nhất định trong những ngày cuối cùng, và bảo đảm là sẽ có trực thăng đưa họ và gia đình tới nơi an toàn. Nhưng trực thăng lại tới nơi khác để bốc người Mỹ.


Đồng nghiệp và thông dịch viên của tôi trong hai chuyến phục vụ là Nguyễn Van Qui (không có bỏ dấu) đang ở trong Bệnh viện Seventh Day Adventist Hospital (Bệnh viện 3 Dã chiến) để tuyệt vọng chiến đấu với bệnh ung thư khi các bác sĩ (Mỹ) tới thăm và cho thuốc vào một buổi chiều. Họ nói với ông ta là sáng sau sẽ quay lại - rồi lên máy bay đi Dodge City.
Tôi ở đó với một nhóm người Mỹ từ Tiểu bang Michigan đã nhận trẻ Việt lai Mỹ làm con nuôi. Họ cần người biết rõ về Việt Nam để vượt qua các trở ngại hành chánh mà kịp cứu lấy bầy trẻ. (Thống đốc Miliken đã ban bố chánh sách "cửa ngỏ", rằng tiểu bang Michigan của ông sẽ tìm nơi định cư cho bất cứ trẻ mồ côi nào mà chúng tôi đem về được). Phần lớn công việc của tôi khi ấy là giúp họ tiếp xúc với Toà Đại sứ và Chính phủ Việt Nam và dường như là mỗi khi mình sẵn sàng đi thì lại thấy một người Mỹ hay một người Việt khác đang muốn bay tới bến bờ tự do như nhóm người vừa thoát hôm trước.
Tôi ở lại chứng kiến những người Mỹ mà tôi đưa đi đã tới hết cô nhi viện này tới viện dục anh khác với lời hứa hẹn cấp cứu. "Đừng lo, chúng tôi sẽ bốc mọi trẻ qua Mỹ, đưa chúng vào các gia đình tử tế". Nhiều bậc phụ huynh người Việt tìm gặp những người Mỹ này, van xin họ đưa dùm con cái tới Mỹ trước khi Cộng sản vào. Ngay giờ này - 35 năm sau - tôi còn ứa lệ khi nhớ tới sự xúc động của những người đã phải mất những gì họ quý nhất - con cái - trong niềm hy vọng là chúng sẽ có một cuộc sống khá hơn ở ngoài vòng chiến tranh và cộng sản.
Thế rồi một buổi tối, những người Mỹ "anh hùng" ấy nghe đồn rằng người Việt sẽ bắt đầu giết họ vì bị bội phản. Ngày hôm sau, họ bảo tôi là họ sẽ bay đi Hong Kong và đợi... đợi gì" Đợi tình hình Sàigòn sẽ sáng  sủa hơn" Tôi không còn nghe thấy gì về họ nữa, và những đứa trẻ đã được hứa hẹn cứu vớt đành ở lại đó - mà lo lấy thân.
Năm trước đó, tôi đã qua lại Cam Bốt nhiều lần và biết rằng tình hình nơi đó còn tệ hơn tại Việt Nam. Vì vậy, trong khi dân Michigan đang phối hợp việc cứu trẻ tại Saigon thì tôi dành ngày nghỉ qua phối hợp việc cứu trẻ tại Nam Vang. Tôi có một nhóm mà tụi tôi thời đó gọi là "chiêu đãi viên" (với loại nghiệp vụ mà tôi không biết, như cho trẻ ăn hoặc thay tã lót) đã tình nguyện giúp đỡ trong các phi vụ C-130 chở gạo tới và hôm sau bốc về Sàigon một máy bay đầy nhóc trẻ em, thay vì bay về không. Nhưng Quốc hội ở nhà đã hạn chế số nhân viên được tới Cam Bốt nên tôi muốn vào là có người ở đó phải ra để nhường chỗ! Và cả chuyện ấy chỉ là ưu tiên rất nhỏ.
Trước khi tôi xin được giải tỏa sự hạn chế này thì mọi chuyện đều tan tành. Ông George Jacobson, do Đại sứ Graham Martin yêu cầu bố trí chuyến bay đầu tiên của tôi vào Nam Vang, có lần gửi công văn tới khách sạn của tôi, rằng phải chấm dứt. Trên đường tới Sứ quán để nói chuyện với ông ta về vụ này thì tôi thấy tựa đề in trên trang nhất của tờ Saigon Post.
Vài ngày sau, tờ Post loan tiếp những chuyện mà tôi biết trước là sẽ xảy ra....
Mỗi khi thấy một sinh viên Cam Bốt, Việt Nam hay Á Châu bước lên bục nhận bằng tốt nghiệp, tôi lại cố ghìm nước mắt. Vì biết rằng nếu mình khéo hơn và sớm hơn, hàng trăm đứa trẻ Cam Bốt bé tí xíu đã có cơ hội tới Hoa Kỳ và có thể được giáo dục và có cuộc sống tươi vui. Thay vào đó và nhờ "phong trào hòa bình" và Quốc hội Mỹ, chúng ta đã bội ước lời hứa long trọng của mình và nhiều triệu người bị tàn sát.
Tôi thật ân hận. Đã có lúc tôi hy vọng rằng những kỷ niệm này - cảnh cha mẹ hốt hoảng, lạy van ai đó cứu lấy con mình trước khi cộng sản vào, những đứa trẻ mồ côi bất lực, và mấy triệu người mà Hoa Kỳ đã cam kết bảo vệ - cũng sẽ phai mờ cùng năm tháng. Chuyện ấy không xảy ra, và tôi biết là sẽ đem theo những hình ảnh đó xuống huyệt.
Xin Thượng Đế cứu vớt linh hồn của các nạn nhân - kể cả 58.196 người Mỹ đã hy sinh đến tuyệt đối cho một lý tưởng cao đẹp. Xin Thượng Đế hãy ban phước lành cho những người bị bỏ lại để sống dưới ách độc tài, và trong nhiều trường hợp, dưới nạn diệt chủng. Và xin Ngài độ trì những người đã đến được xứ này, cùng con cháu của họ, để trả lại món nợ bội ước bằng cách làm Hoa Kỳ là một nơi đáng sống hơn cho mọi người trong chúng ta.
Nhưng, nếu có một chút công lý thì những kẻ như John Kerry, Ted Kennedy, Franck Church, Clifford Case, J. William Fulbright và một lũ khác nữa, sẽ phải mục nát dưới Địa Ngục. (Tôi xin lỗi. Có lẽ vì quên mất lời nguyện của mình).

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chỉ ba tháng sau khi Việt Nam nâng cấp quan hệ với Mỹ lên cấp cao nhất trong hệ thống phân cấp ngoại giao trong chuyến thăm của Tổng thống Biden, người ta thấy Chủ tịch Tập Cận Bình của Trung Quốc đã trở thành nhà lãnh đạo thế giới mới nhất tăng cường quan hệ với Việt Nam với chuyến thăm Hà Nội trong tuần này...
Chuyến thăm Việt Nam hai ngày của Tổng Bí thư Đảng, Chủ tịch nước Cộng sản Trung Quốc, Tập Cận Bình đã để lại nhiều hệ lụy cho nhân dân Việt Nam hơn bao giờ hết. Bằng chứng này được thể hiện trong Tuyên bố chung ngày 13/12/2023 theo đó họ Tập thay quan điểm “cộng đồng chung vận mệnh” bằng “xây dựng Cộng đồng chia sẻ tương lai” cho hai nước...
Sự ra đi của nhà tư tưởng và thực hành xuất sắc về chính sách đối ngoại của Mỹ đánh dấu một kỷ nguyên kết thúc. Trong suốt sự nghiệp lâu dài và có ảnh hưởng phi thường của mình, Henry Kissinger đã xây dựng một di sản mà người Mỹ sẽ khôn ngoan chú ý trong kỷ nguyên mới của nền chính trị cường quốc và sự xáo trộn trong toàn cầu. Thật khó để tưởng tượng rằng thế giới mà không có Henry Kissinger, không chỉ đơn giản vì ông sống đến 100 tuổi, mà vì ông chiếm một vị trí có ảnh hưởng và đôi khi chế ngự trong chính sách đối ngoại và quan hệ quốc tế của Mỹ trong hơn nửa thế kỷ.
“Tham nhũng kinh tế” ở Việt Nam đã trở thành “quốc nạn”, nhưng “tham nhũng quyền lực” do chính đảng viên gây ra để thu tóm quyền cai trị mới khiến Đảng lo sợ. Đó là nội dung đang được phổ biến học tập để đề phòng và bảo vệ chế độ do Ban Nội chính Trung ương công bố...
“Trong năm 2023 còn nhiều vấn đề đáng lo ngại, gây bất an cho xã hội. Các tội phạm trên các lĩnh vực tiếp tục gia tăng toàn quốc xảy ra 48.100 vụ phạm tội và trật tự xã hội tăng 18%.”
Việt Nam đang thương lượng mua chiến đấu cơ F-16 của Mỹ để tăng cường bảo vệ an ninh trước đe dọa ngày một lên cao của Trung Quốc ở Biển Đông. Tin này được truyền miệng ở Hoa Thịnh Đốn, tiếp theo sau chuyến thăm Việt Nam 2 ngày 10-11 tháng 9/2023 của Tổng thống Joe Biden. Tuy nhiên, các viên chức thẩm quyền của đôi bên không tiết lộ số lượng F-16 mà Việt Nam có thể mua với giá 30 triệu dollars một chiếc...
Số năm tháng tôi nằm trong tù chắc ít hơn thời gian mà nhà thơ Nguyễn Chí Thiện ngồi trong nhà mét (W.C) và có lẽ cũng chỉ bằng thời gian ngủ trưa của nhà văn Vũ Thư Hiên, ở trại Bất Bạt, Sơn Tây. Bởi vậy, sau khi đọc tác phẩm Hỏa Lò và Đêm Giữa Ban Ngày của hai ông (rồi đọc thêm Chuyện Kể Năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn, Thung Lũng Tử Thần của Vũ Ánh, và Trại Kiên Giam của Nguyễn Chí Thiệp) thì tôi tự hứa là không bao giờ viết lách gì vể chuyện nhà tù, trại tù hay người tù nào cả.
Càng gần đến Đại hội đảng toàn quốc khóa XIV (2026-2031), đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) càng ra sức kiên định 4 nguyên tắc được coi là “có ý nghĩa sống còn đối với chế độ.”
Trời mưa thì buồn. Trời nắng thì vui. Mưa nhiều quá gây lụt lội, trở thành thảm cảnh. Nắng quá độ gây khô hạn, cháy mùa màng, gây đói khổ. Gọi là thiên tai. Có nghĩa thảm họa do trời gây ra. Hoặc chữ “thiên” đại diện cho thiên nhiên. Nhưng gần đây, vấn nạn khí hậu biến đổi, gây ra nhiều “thiên tai” có thể gọi lại là “thiên nhân tai,” vì con người góp phần lớn tạo ra khốn khổ cho nhau. “Thiên nhân tai,” nghe lạ mà có đúng không? Nguyên nhân chính gây ra biến đổi khí hậu là hiệu ứng nhà kính. Một số loại khí trong bầu khí quyển bao quanh trái đất hoạt động hơi giống như gương kính trong nhà kính, giữ nhiệt của mặt trời và ngăn nó trở lại không gian, gây ra hiện tượng nóng lên cho toàn cầu. Nhiều loại khí nhà kính này xuất hiện một cách tự nhiên, nhưng các hoạt động của con người đang làm tăng nồng độ của một số loại khí này trong khí quyển, cụ thể là: Cacbon dioxit (CO2), khí mê-tan, nitơ oxit, khí florua
Tuy lịch sử không nói đến, nhưng nếu chịu khó lục lọi đây đó, người ta sẽ tìm ra một giai thoại khá thú vị về việc bản Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam được Hồ Chí Minh soạn thảo và đọc trong buổi lễ trước công chúng tại vườn hoa Ba Đình (nay là Quảng trường Ba Đình) ngày 2 tháng 9 năm 1945. Theo tường thuật của nhà báo Hồng Hà trên báo Cứu Quốc của Việt Minh, ông Nguyễn Hữu Đang là người đọc chương trình buổi lễ và giới thiệu Chính phủ Lâm thời cùng chủ tịch Chính phủ đọc Tuyên ngôn Độc lập. Ông Nguyễn Hữu Đang là Trưởng ban Tổ chức Lễ đài, ông chính là người đứng trước micro giới thiệu: “Thưa đồng bào... Đây là Chủ tịch Chính phủ Lâm thời Hồ Chí Minh.” Nói xong, ông lùi lại, nhường micro cho Hồ Chí Minh.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.