Hôm nay,  

Kỷ Vật Cho Em – Hoài Niệm Về Một Bài Hát

06/03/200800:00:00(Xem: 13520)

Một trong những bài hát được lính và người yêu của lính yêu chuộng nhất vào đầu thập niên 70 phải nói là bài “Kỷ Vật Cho Em”. Tuy được yêu thích, nhưng bài hát cũng gây nhiều tranh cãi. Tranh cãi về nội dung, xôn xao về tác giả và nếu không có cách nhìn cởi mở của một ông tướng đầu ngành một thời là xếp của tôi thì bài hát đã nằm chung trong danh sách những bài hát bị cấm phổ biến trong quân đội.

Xét về nội dung, có dư luận bênh vực thì cho nó là “câu trả lời” trung thực cho một thời mà những số phận phải mang màu áo lính hoặc trở thành “xanh cỏ” vĩnh viễn đi vào huyền thọai của những ‘anh hùng không tên’, hoặc “đỏ ngực” mang theo thương tật ngậm ngùi trở về rồi đi dần vào quên lãng.

Tuy nhiên trong thời chiến, nếu nhìn theo từ góc độ của những người làm công tác tâm lý chiến hoặc binh vận để nâng cao tinh thần binh sĩ thì bài hát cứ hiểu theo lời ca  phần nào có làm ‘nản lòng chiến sĩ’, từ đó nó được đề nghị xếp vào loại nhạc “phản chiến”.

Với tư cách một người lính và có dịp trực tiếp làm công tác văn nghệ trong quân đội, tôi có vài kỷ niệm về bài hát này mà chẳng cần dấu diếm đó là bài hát tôi rất yêu thích. Sau này khi tàn cuộc chiến nó lại là bài hát ‘tủ’ của tôi khi hát cho nhau nghe từ trong các trại tù cải tạo, kể cả đôi khi nhảy dù vào “biệt khu tướng lãnh” để cùng hát với ngón đàn guitar của tướng Đảo ở trại Nam Hà.

Bài hát này đối với  những người yêu nhạc thì chỉ biết tác giả của nó là ông Phạm Duy vì về mặt in ấn, phổ biến công khai  đều ghi: Nhạc và Lời của Phạm Duy. Nhưng gần đây dư luận có xôn xao hình như bài hát chẳng đơn thuần là của PD mà nó có đồng một tác giả là nhà thơ Linh Phương, một thi sĩ trẻ, nhiều tâm huyết nhưng khá lận đận. Không hiểu có sự đồng thuận nào giữa hai người, chỉ biết nhiều thập niên qua PD ‘cứ ngoảnh mặt làm ngơ’ không để tên Linh Phương vào tư cách đồng tác giả của bài hát.

Ở đây ta không bàn về mặt đạo đức sáng tác hay lợi nhuận phát hành, xin để dành cho các nhà phê bình nhạc và văn học, nhưng ta phải công nhận một điều Phạm Duy là “phù thủy” về chọn thơ, chuyển chữ để đưa vào âm nhạc và ông cần được nhắc nhớ như là ‘một nhà phổ nhạc’ bậc thầy của nền nhạc Việt nam trong thế kỷ 20.

Chẳng vậy vào lúc cuối đời, ông trở về Việt nam để tìm lại thính giả xưa cùng dẫn dụ người nghe mới, tôi nhớ trong chương trình nhạc chủ đề, ‘Phạm Duy-Ngày trở về’ tại rạp Hòa Bình, ông đã công khai hóa nhiều tên tác giả của những bài thơ mà ông đã vay mượn. Tỷ lệ số bài trình diễn đêm đó có phần “Lời lấy từ Thơ” đã chiếm khoảng...70%.

Trở lại bài “Kỷ vật cho Em” thì nghe nói xuất xứ của nó không có tên này. Tựa bài thơ chính gốc của nó là “Để Trả Lời Một Câu Hỏi” được Trần Dạ Từ khám phá và cho đăng trên trang Văn&Thơ của Nhật báo Độc Lập vào đầu 70 (tôi xin có lời cám ơn ông Dạ Từ).

Nói về bối cảnh thì bài hát được ra đời giữa lúc chiến trường vô cùng sôi động. Chiến tranh không chỉ trải dài từ Quảng trị tới Cà Mâu mà đã lan qua tới Hạ Lào, Kam puchia để rồi con số những người lính đã nằm xuống, được tải thương, mang thương tật làm cho những kẻ ở hậu phương phải xót xa chóng mặt. Đó cũng là lý do nhà thơ đưa ra câu hỏi, được nhắc đi nhắc lại trong bài thơ chỉ vỏn vẹn 24 câu,”Em hỏi anh bao giờ trở lại/Xin trả lời mai mốt anh về”. Mai mốt là bao giờ, mai mốt có thể là thiên thu, cũng có thể là khi tàn cuộc chiến, mà cuộc chiến thì biết bao giờ tàn. Chính vì chưa tìm ra ẩn số cho câu hỏi của bài thơ, nên nội dung bản nhạc mang nhiều âm vang ray rứt. Cứ theo tôi nghĩ thì người phổ nhạc đã phải chọn tên “kỷ vật cho em” để thả nổi phần giải đáp cho các số phận xoay quanh những nghiệt ngã một thời.

Bài hát cũng tài tình ở chỗ các câu thơ đựợc phổ vẫn giữ nguyên vẹn lời thơ và thể thơ, không thêm không bớt, trừ một câu bị gạt bỏ (‘mai anh về em sầu thê thiết’) để chuyển ý cho điệp khúc. Bài hát cũng độc đáo dù lặp đi lặp lại 36 lần các nhóm từ, (em hỏi anh, xin trả lời, anh trở về , anh trở lại..) nhưng bài hát không thành đơn điệu mà vẫn chuyển tải, thăng hoa đựơc toàn bộ ý thơ. Thậm chí trong chừng mực nào đó dù người phổ nhạc có đổi câu ‘em nhìn anh ánh mắt chưa quen’ thành ‘ta nhìn nhau ánh mắt chưa quen’ cũng chỉ vì dụng ý muốn cho người thương binh bớt phần cay đắng.

Về âm điệu, bản nhạc được PD soạn theo điệu slow rock, cung Ré trưởng rất hạp với cảm quan của một thời. Laị được tiếng hát của Thái Thanh chắp cánh khiến cả phần thơ lẫn nhạc làm cho người nghe đủ giới phải xúc động xót thương cho những thân phận mang màu áo rừng.

Tôi còn nhớ sau khi bài hát được phát hành thì nó đựợc hâm mộ quá sức, yêu cầu được thính giả gửi tới tấp về các đài, chiến sĩ thì yêu cầu ‘bis’ đi ‘bis’ lại mỗi lần đi hát tiền đồn, phòng trà thì khách mộ điệu đòi hỏi đến độ ca sĩ nào cũng thuôc bài này. Càng về sau TT không còn độc quyền mà Thanh Lan, Khánh Ly, Lệ thu, Nhật Trường cũng trở thành các ca sĩ ăn khách với Kỷ Vật Cho Em.

Trong số thính giả ái mộ có một người em kết nghĩa của tôi, một sĩ quan xuất thân từ trường Đại học chiến tranh chính trị, lúc đó chiến đấu tại một đơn vị BĐQ trên cao nguyên. Chuyện ái mộ thì chẳng có gì đáng nói, nhưng trong trường hợp này, bài hát lại “quẩn” vào số phận của hai kẻ yêu nhau. Quốc Bảo và Chi Lan là biểu tượng của một mối tình đẹp trong thời chiến, họ yêu nhau, lấy nhau rồi xa nhau. Tôi nhớ trong tiệc cưới  tại CLB không quân Huỳnh hữu Bạc, tôi làm chủ hôn kiêm MC. Tiệc cưới có phần phụ diễn văn nghệ và nếu ai thích có thêm cả khiêu vũ. Thời chiến  cưới nhau giản dị chủ yếu là vui, nhiều người còn mặc cả đồ tác chiến vì đang cắm trại.

Trong lúc tôi đang loay hoay tiếp khách ở ngoài cửa thì tự nhiên văng vẳng có tiếng hát... Kỷ Vật Cho Em. Tôi không tin vào tai mình bèn chạy thẳng vào hậu trường sân khấu, trách ngay ông thượng sĩ trưởng ban nhạc, sao lại cho chơi bản này, anh ta trả lời ,tại Trung úy Bảo năn nỉ, ông bảo em cứ cho hát kẻo chút nữa ông thầy (là tôi) sẽ cản. Lúc này người hát là ca sĩ PHQ tôi có phần nể nên không dám cắt ngang, rút cục bài hát đã chấm dứt nhưng chẳng ai có lòng nào để vỗ tay. Khỏi cần đoán cũng hiểu tiệc cưới bữa đó phần nào mất vui và tôi nghĩ đây là lần duy nhất bài hát này không được nồng nhiệt tán thưởng.

Chưa đầy một năm sau, mùa hè đỏ lửa trên chiến trường Tây nguyên. Sau một cuộc chạm trán ác liệt với quân chính qui Bắc Việt, Đaị đội phó CTCT Hoàng quốc Bảo đã anh dũng bỏ mình tại mặt trận Chu P’rong. Cánh quân của Bảo chỉ kịp rút, không mang được xác của Bảo ra. Ba ngày sau, quá thương đồng đội, cấp chỉ huy mở tiếp hành quân cướp xác. Hỏa lực địch quá mạnh, đơn vị của Bảo chịu bỏ cuộc. Quốc Bảo không trở về bằng ‘hòm gỗ cài hoa”, cũng chẳng được tải thương “trên trực thăng sơn màu tang trắng” như bài hát anh hằng ưa thích. Chỉ Chi Lan dù không nhận được xác chồng nhưng vẫn ‘chít khăn tang trên đầu vôi vã’ rồi cố quên đi kỷ niệm chăn gối một thời.

“Kỷ vật cho em” đã đi vào huyền thoại. Cuộc chiến chấm dứt, nhưng bài hát vẫn còn được yêu cầu trong các trại tù cải tạo và mỗi khi có các cuộc họp mặt hội đoàn tại hải ngoại. Nét hào hùng bi tráng của những người lính một thời đất nước điêu linh như vẫn còn vang vọng theo tiếng hát. Bất giác tôi lại nghĩ không hiểu Linh Phương hiện trôi dạt nơi nào, nếu được xin anh cho một sáng tác mới “Kỷ Vật Cho Em  II”  như một lời ai điếu cho những số phận bỏ mình trong các trại tù nơi thâm sâu cùng cốc (dù kỷ vật không còn là ’những viên đạn đồng đen’ mà là những chiếc lựơc nhôm, những chiếc trâm cài trên tóc) để riêng tặng những người vợ, người yêu của những người tù cải tạo. Họ cũng muốn đặt câu hỏi ‘em hỏi anh bao giờ trở lại’ nhưng câu trả lời chả biết hỏi ai.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Từ thế kỷ thứ ba trước Tây lịch, Triết gia Mạnh Tử (372-289 BC) của Trung Hoa đã nói rằng, “Dân là quý, thứ đến đất nước, rồi tới vua.” Điều đáng nói là Mạnh Tử là người đi theo học thuyết của Nho Gia vốn chủ trương vua là con ông Trời (Thiên tử) được sai xuống nhân gian để trị quốc an dân, vậy mà cũng không thể phủ nhận vai trò quan trọng, nếu không muốn nói là tối quan trọng của người dân. Thời hiện đại, công pháp quốc tế đã nêu ba yếu tố chính hình thành một quốc gia: người dân, lãnh thổ và chính quyền. Trong đó, thật ra người dân chính là yếu tố then chốt quyết định. Lãnh thổ nếu không có dân ở, không có người quản trị thì không phải là đất nước của một dân tộc. Chính quyền từ người dân mà ra, bởi vì trước khi một người ra nắm quyền cai trị đất nước thì người đó phải là một người dân của đất nước ấy. Hơn nữa, sự thịnh suy của một quốc gia nằm trong tay người dân.
“Phản động lực” mà người Đài Loan thể hiện trong cuộc bầu cử tổng thống vừa rồi khiến tôi, sau những suy nghĩ miên man về chuyện nước non, lại quay về với bài học yêu nước của thời tiểu học với câu hỏi khó, khiến nhiều học trò gác bút: “Em hãy tìm từ phản nghĩa với ‘tôn đại’.” Trung Quốc càng hung hăng đe dọa bao nhiêu, Đài Loan càng quật cường ngạo nghễ bấy nhiêu. Mà nếu Bắc Kinh ngu ngơ hay vờ vịt không biết gì đến định luật này thì, thầy nào tớ đó, Hà Nội cũng mù tịt hay giả bộ tương tự. Họặc mù tịt như thể đã hoàn toàn miễn dịch trước luật này; hoặc đóng kịch như thể không hề sống trong không gian ba chiều bình thường mà là một môi trường nào đó thiêu thiếu, cơ hồ chỉ… hai chiều rưỡi.
Tôi sinh trưởng ở Đà Lạt (Thành Phố Ngàn Hoa) nên sự hiểu biết về hoa lá cũng không đến nỗi tồi. Thế mà mãi tới bữa rồi, nhờ xem trang Trăm Hoa, mới được biết thêm về một loài hoa nữa – hoa ban: “Mùa hoa nở là lúc các cặp đôi nô nức đến thăm Tây Bắc. Hoa ban trắng tượng trưng cho tình yêu chung thủy và sự chân thành, dù tình yêu có gặp nhiều trắc trở, khó khăn thì cũng tự tin vượt qua và sẵn sàng đi đến bến bờ hạnh phúc. Các cặp đôi yêu nhau thường thề nguyện dưới gốc cây hoa ban như một minh chứng cho tình yêu thủy chung, bền chặt.”
Nhìn vào sự xuất hiện, sinh trưởng và tồn tại của chế độ cộng sản ở Việt Nam, chúng ta không thể phủ nhận đã có sự tương đồng với những thông tin tóm lược vừa nói về bệnh ung thư của con người...
Tôi tình cờ nhìn thấy hình Nguyễn Thúy Hạnh đang lơn tơn đẩy một cái xe cút kít đầy ắp bưởi (trên trang RFA) trong một cuộc phỏng vấn do Tuấn Khanh thực hiện, vào hôm 19 tháng Giêng năm 2021. Bên dưới tấm ảnh này không có lời ghi chú nào về thời điểm bấm máy nên tôi đoán có lẽ đây là lúc mà cô em đang hớn hở đến thăm vườn bưởi của họ Trịnh (ở Hòa Bình) vào “thuở trời đất (chưa) nổi cơn gió bụi”!
Tổng Bí thư đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng đang phải đối mặt với cuộc tranh chấp nội bộ trong kế hoạch tìm người kế nhiệm lãnh đạo khóa đảng XIV, nhiệm kỳ 2026-31. Những tranh chấp này được giữ kín để tránh hoang mang nội bộ. Chúng bộc phát ngay tại các Đại hội đảng địa phương và các ban đảng từ tháng 10 năm 2023...
Cuộc bầu cử tổng thống lần thứ 8 tại Đài Loan đã được tổ chức vào ngày 13/1 với kết quả là ông Lại Thành Đức Phó chủ tịch Đảng Dân tiến (Democratic Progressive Party, DPP) thắng cử...
Chúng ta đang làm nhân chứng cho một cuộc bầu cử kỳ quặc và đa sự chưa từng xảy ra trong lịch sử đầu phiếu ở Hoa Kỳ. Có thể nói, không chỉ lịch sử, mà rộng lớn hơn, chính là "sự cố" văn hóa chưa từng thấy. Bước vào năm 2024, sự tranh đua giữa hai đảng Cộng Hòa và Dân Chủ càng gay go, khốc liệt với âm mưu, độc kế, thủ đoạn, ám toán, bôi nhọ, mánh mung, để xem ai sẽ là chủ nhân của ngôi Nhà Trắng trong bốn năm tới. Tất cả những ý nghĩ, hành vi đó đều gôm vào chính sách, chiến lược và chiến thuật vận động bầu cử. Bạn đọc sẽ có dịp theo dõi các thầy bàn người Mỹ và thầy bàn người Việt (trong và ngoài nước) phong phú hóa, hư cấu hóa, ảo tưởng hóa về việc bầu cử, tạo ra câu chuyện nửa thực, nửa hư, thú vị, bất ngờ với giận dữ và thất vọng, sung sướng và buồn bã, rung đùi và cụng ly, nguyền rủa và chửi bới, vân vân. Thông thường những luận lý, âm mưu, phê phán, dự đoán đó… được mổ xẻ qua kiến thức và kinh nghiệm tây phương, nơi có hàng ngàn sách vở nghiên cứu chính trường, chính đạo,
Chúng ta đang bước vào năm bầu cử. Năm 2024 sẽ có một cuộc bầu cử có tính quyết liệt, vì các lựa chọn chắc chắn sẽ gây tranh cãi trong nội bộ cộng đồng gốc Việt, trong các gia đình người Việt, giữa các lựa chọn về cấp tiến và bảo thủ, giữa các thế hệ trẻ và già ở hải ngoại. Và chắc chắn là bầu cử tháng 11/2024 tại Hoa Kỳ sẽ ảnh hưởng tới cuộc chiến Trung Đông, cuộc chiến ở Ukraine, và ở cả Đài Loan. Tác động như thế nào, chúng ta khó đo lường hết tất cả các ảnh hưởng. Trong đó, một tác động lớn là từ tin giả, nói kiểu Mỹ là Fake News, tức là tin không thật.
Tôi rất thích khoa nhân chủng nhưng không có cơ may đến trường để được truyền thụ một cách bài bản về ngành học thú vị này. Hoàn cảnh sống, nói nào ngay, cũng không mấy thích hợp cho nhu cầu tự học. Suốt ngày (và suốt đời) tôi chỉ loanh quanh hàng quán nơi mà những kẻ hay lê la thường nói rất nhiều, dù sự hiểu biết của họ vốn không được bao nhiêu. Ngoài giới hạn về kiến thức, mấy ông bạn đồng ẩm còn có cái tật rất hay tranh cãi (và luôn cãi chầy cãi cối) nên mọi thông tin, từ bàn nhậu, đều không được khả xác hay khả tín gì cho lắm.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.