Hôm nay,  

Cành Mai Trước Sân

02/09/200900:00:00(Xem: 5392)

CÀNH MAI TRƯỚC SÂN
Vĩnh Hảo
(vài chuyện trao đổi văn học, tưởng niệm bách nhật văn/họa sĩ Võ Đình từ trần)
Có một vài kỷ niệm với người anh trong làng văn, là văn/họa sĩ Võ Đình, mất vào ngày 31 tháng 5, 2009 vừa qua. Những kỷ niệm này có thể nói theo từ ngữ nhà Phật là “duyên.” Cái duyên này xoay chung quanh một cành mai. Nhưng trước khi đi sâu vào câu chuyện với “yêng” Võ Đình, tưởng cũng nên đi một vòng lan man về “một cành mai” này.
Mười lăm năm trước, 1994, tôi có xuất bản tác phẩm “Sân Trước Cành Mai”. Trong tác phẩm này có bài “Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết”, lại có bài thơ “Sân trước cành mai” dùng làm tựa đề chung cho tác phẩm.
Sáu năm sau đó, năm 2000, nhà văn Nguyễn Tường Bách bên Đức có tác phẩm “Đêm Qua Sân Trước Một Cành Mai.” Bốn năm sau nữa, 2004, nhà văn Đỗ Hồng Ngọc trong nước xuất bản cuốn “Cành Mai Sân Trước.” Rồi năm kế tiếp, 2005, nhà văn Trần Trung Đạo ở Massachusetts, Hoa Kỳ, có bài tâm bút “Tối Qua Sân Trước Một Cành Mai.” Cũng trong năm đó, nhà văn Võ Đình ở Florida, Hoa Kỳ, xuất bản cuốn “Một Cành Mai.”  Đầu năm 2008, nhà văn Thái Kim Lan bên Pháp cũng có bài tùy bút “Một Cành Mai.”
Sân trước cành mai, cành mai sân trước, cành mai trước sân, đêm qua sân trước một cành mai, tối qua sân trước một cành mai, nhất chi mai, một cành mai , cành mai , làng mai , đình mai, mai…
Mai quả là một loài hoa sang quí, được nhiều văn thi sĩ nhắc đến một cách trân trọng. Nhưng những nhóm từ được dùng làm tựa sách, tựa bài, tựa nhạc phẩm, tên làng, tên người… nói trên, hầu như đều được khơi nguồn hứng cảm từ bài thơ chữ Hán “Cáo Tật Thị Chúng” của Thiền sư Mãn Giác thời Lý (1052 – 1096), trong đó có câu cuối là “Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.” Chỉ có bảy chữ (trong bài thơ ngắn ba mươi bốn chữ) này thôi mà biết bao đạo gia, văn thi nhân, nhạc sĩ, dùng tới dùng lui không biết chán.
Một bài thơ ngắn trải qua gần một nghìn năm vẫn còn ảnh hưởng đến tinh thần và xúc cảm của người đời sau ở trong nước, ngoài nước, và ngay cả đối với người ngoại quốc, thì phải nói là bất hủ.
Xin trích lại lần nữa nơi đây để bạn đọc nào chưa biết bài thơ ấy có cái nhìn tổng quát câu chuyện văn chương về một cành mai mà tôi muốn nói ở sau.
“Xuân khứ, bách hoa lạc
Xuân đáo, bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tùng đầu thượng lai.
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai.”
(Cáo Tật Thị Chúng, Thiền sư Mãn Giác, thời Lý)

Ngô Tất Tố dịch:
“Xuân đi trăm hoa rụng
Xuân đến trăm hoa cười
Trước mặt việc đi mãi
Trên đầu già đến rồi
Đừng bảo xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một cành mai.”

Võ Đình dịch:
“Xuân đi, trăm hoa rãi
Xuân đến, trăm hoa khai.
Xem chuyện đời trước mắt
Tóc trên đầu đã phai.
Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết
Tối qua, vườn trước một cành mai.”
Giáo sư Nguyễn Ngọc Bích dịch sang Anh ngữ, đặt tựa là “Rebirth” (Tái Sinh) như sau:
“Spring goes, and the hundred flowers.
Spring comes, and the hundred flowers.
My eyes watch things passing,
My head fills with years.
But when spring has gone not all the flowers follow.
Last night a plum branch blossomed by my door.”
Vào năm 1995, tôi có viết “Về một bài thơ thiền mùa xuân,” phân tích khá kỹ bài Cáo Tật Thị Chúng rồi, nhưng sau đó, vẫn thấy là chưa nói hết ý. Trong bài viết ấy, tôi có dùng hai bản dịch của Ngô Tất Tố và Võ Đình để đối chiếu, phân tích. Cái duyên với nhà văn Võ Đình là từ đây, dù rằng anh vốn là người rất thân với gia đình tôi từ lâu.
Trong đoạn nói về hai câu “Xem chuyện đời trước mắt / Tóc trên đầu đã phai” do anh Võ Đình dịch, tôi viết: “Người phương Tây quen với văn chương hiện thực hẳn phải chịu họa sĩ Võ Đình ở chỗ đó. Thiền sư không nói chuyện tóc bạc, tóc phai, tóc muối tiêu, tóc pha sương gì hết. Chỉ nói sự già (hay tuổi già) kéo đến trên đầu. Một lối nói khéo của người Đông phương. Họa sĩ Võ Đình không chịu sự úp mở đó, hoặc anh muốn nói huỵch toẹt, nói thẳng thừng thực tế tóc bạc là tóc bạc cho người đọc, nhất là các bạn phương Tây của mình dễ lĩnh hội hơn. Tóc trên đầu đã phai… Nhưng anh ác quá, anh nói thực quá! Anh nhập vai thiền sư, quan sát cuộc đời trước mắt, nhưng diễn lại bài thi kệ ấy theo hoàn cảnh của anh; vì vậy, anh quên một điều còn thực tế hơn, rằng thiền sư không có tóc (có chăng cũng chưa dài khỏi một phân tây). Dù một tháng không cạo lại, tóc thiền sư cũng chỉ lúp xúp đâu chừng nửa phân. Ngắn củn như vậy nên dù còn tóc trên đầu, người ta vẫn nói rằng các nhà sư không có tóc. Không có tóc nên thiền sư không thể diễn tả tóc bạc, tóc phai; chỉ nói cái già kéo đến trên đầu, vừa khéo, vừa đúng với hoàn cảnh nhà sư của mình. Họa sĩ Võ Đình là một nghệ sĩ ẩn cư (như một đạo sĩ) trên một ngọn đồi ở xứ lạnh Maryland nên lười hớt tóc (dù có lúc họa sĩ rất muốn cạo tóc làm sư). Họa sĩ thường để tóc dài, có khi muốn chấm vai, nên đâu có quên nhìn thấy tóc mình phai hàng ngày. Họa sĩ nói thẳng chuyện tóc phai đó là phải rồi. (Nhưng nếu họa sĩ nói với mọi người rằng thiền sư đã nói chuyện tóc phai thì chẳng khác gì anh đùa ghẹo—tiếng Huế gọi là ngẳng —với các nhà sư đấy nhé!).”
Khi bài viết của tôi được phổ biến, một vài người bạn hỏi tôi: “Viết như vậy có đụng chạm anh Võ Đình không"” Tôi cười, đáp: “Cái tâm của anh ấy như hư không, không biết là đụng chạm chỗ nào hỉ" Không sao đâu, tôi có gửi cho anh ấy đọc trước rồi. Anh ấy còn khen và gửi tặng tấm hình có cành hoa mai trước hiên nhà cho tôi nữa mà!” Quả là vậy. Anh Võ Đình là một người anh lớn thật đáng quí mến. Cả nhà tôi đều dành cho anh tình cảm đó. Anh không giận tôi vì bài viết đó, chỉ nói vài chữ để bảo vệ hai chữ “tóc phai” của anh, gửi bằng postcard đến tôi: “Vả lại, dù cạo đầu, tóc của thầy Minh Châu hay thầy Từ Mẫn đều bạc trắng thấy rõ kia mà!”
Trong giới văn bút, Võ Đình đã nổi tiếng từ lâu, là một đàn anh đi trước tôi nhiều năm, và nói về kiến thức học thuật thì đáng bậc thầy của tôi, nhưng anh rất khiêm cung, tế nhị, đôi lúc rất thẳng thắn.
Một lần, anh viết thư mách tôi biết, và cũng là xin phép, lấy một câu văn của tôi để đưa vào truyện ngắn nào đó của anh. Anh viết: “Tôi chôm của chú một câu trong truyện dài Phương Trời Cao Rộng, chỗ bà mẹ cầu thỉnh ông thầy cho đứa con trai của mình xuất gia.” Câu văn mà anh nói là “chôm” đó, thực ra chỉ lấy ý thôi, chứ không phải lấy nguyên văn (tôi quên mất nó nằm trong truyện ngắn nào trong các tác phẩm của anh). Vậy mà anh vẫn “xin phép” đàng hoàng, cẩn thận. Qua chuyện nhỏ ấy, tôi thật cảm kích cung cách làm “văn nghệ” rất mực “quân tử” của anh.


Vài năm sau, anh liên lạc, nói là muốn trích đăng nguyên một đoạn trong bài viết của tôi, chính cái bài mà tôi nói chuyện “tóc phai” ở trên, để đưa vào lời tựa cho tác phẩm “Một Cành Mai” của anh. Điều này càng chứng tỏ rõ hơn, rằng anh không hề có ý giận trách gì cái “tội” dám phân tích bài dịch của anh. Tôi cho đó là một điều hân hạnh nên vui vẻ đồng ý. Đoạn trích như sau: “Bài thơ xuân trong cửa thiền được nhiều người biết đến nhất, có thể nói là bài ‘Cáo tật thị chúng’ của Mãn Giác, một thiền sư Việt Nam thế kỷ thứ XI, thời Lý, cách đây gần một ngàn năm. Bài thơ ấy thực ra không phải là một bài thơ. Không phải là thơ vì thiền sư, thực ra, đã không làm thơ. Chỉ có thể nói được rằng vào một lúc tâm tư tịch lặng an nhiên nhất, khi những thăng trầm của thế sự không còn là điều bận lòng với mình, khi những cánh hoa tan tác rơi rụng không làm tâm hồn xao xuyến, hãi sợ nữa; và khi, chính sự biến thiên của vạn hữu vô thường ấy lại ảnh hiện vẻ trường cửu bất diệt của chân tâm, thiền sư bất chợt bật lên một tiếng kinh ngạc, hốt nhiên giác ngộ tính cách bất nhị của bản thể và hiện tượng giới. Lẳng lặng cảm nhận niềm an lạc và trí tuệ vô biên đó, thiền sư đóng cửa, cáo bệnh, không bước ra khỏi phương trượng để sinh hoạt với đệ tử như mọi khi. Các đệ tử chầu chực bên ngoài, lo âu, bồn chồn, như linh cảm rằng thầy mình sắp từ giã cuộc đời. Đến chiều tối, để không phụ lòng các đệ tử đang quan tâm đến mình, thiền sư mỉm cười thảo một bài kệ ngắn, gởi ra ngoài cho đại chúng. Bài kệ ấy trở thành những lời dạy cuối cùng ân cần, cảm động và siêu thoát nhất của thiền sư để lại cho đệ tử. Và ngôn ngữ của một kẻ giác ngộ, đứng trên đỉnh cao chót vót của trí tuệ, dù không đẽo gọt, uốn nắn, tìm chữ, sắp đặt ý lời, đã vô tình trở nên thơ. Bài kệ, hay bài thơ "Cáo tật thị chúng" (Cáo bệnh để dạy đệ tử) ấy, trở thành bài thơ bất hủ của nhân loại…”
Cũng liên quan đến “một cành mai,” một lần khác, anh viết email hỏi tôi: “Nè chú, tại sao Thiền sư Mãn Giác làm thơ bằng Hán văn không viết là ‘nhất mai chi’ mà lại viết ‘nhất chi mai’. Chẳng phải theo chữ Hán thì cành mai phải viết là ‘mai chi’ hay sao!" Chú rành chữ Hán chú nói tôi nghe thử.” Tôi viết email trả lời: “Thưa anh, em cũng chẳng rành chữ Hán lắm đâu, nhưng nếu anh hỏi thì em cũng nói theo cảm nghĩ thôi, chứ không chắc là đúng, vì Hán văn vốn chẳng có văn phạm gì cả - văn phạm là do người đời sau, hình như là Hồ Thích hay Lâm Ngữ Đường hệ thống hóa mà đưa vào thôi! Theo em, nếu viết là ‘nhất mai chi’ thì chỉ là một cành của cây mai, cành mai đó chưa chắc có hoa; còn viết ‘nhất chi mai’ thì đó là một cành mai nở hoa. Chữ ‘mai’ đi sau này trở thành như một động từ: nở những hoa mai. Vậy, ‘nhất chi mai’ là một cành nở đầy những hoa mai, hay một cành mai nở đầy hoa.” Anh đọc xong thư, liền viết lại: “Chú trả lời như rứa tôi rất chịu! Tôi cũng như chú, không dám nói là đúng. Vả lại (anh thường dùng chữ này), văn học, hay văn phạm, cũng chẳng có chi gọi là đúng hay sai. Nghệ thuật chỉ có cảm được hay không mà thôi.”
Sở dĩ phải dài dòng chuyện văn nghệ riêng tư giữa anh và tôi ở đây, cũng như lại nhắc câu chuyện cành mai của Thiền sư Mãn Giác (dù đã nói khá nhiều trong những bài viết khác rồi), là vì chẳng hiểu sao, khi nhớ tới anh Võ Đình là tôi nghĩ tới một cành mai. Cảm giác này cũng từng đến khi tôi nhớ về thầy bổn-sư của tôi (đã viên tịch từ năm 1991). Có lẽ vì những vị này đều quí mai và thường nhắc đến mai trong sáng tác của họ.
Riêng anh Võ Đình, còn có tên thật là Võ Đình Mai. Đình Mai, rõ ràng là một cây mai trước sân. Hơn thế, tác phẩm cuối cùng (") của anh, chẳng phải là tác phẩm “Một Cành Mai” đó sao!
Còn nhớ một đoạn trong The Rock Garden của Nikos Kazantzakis, có câu này: “Hỡi cây mai trước sân nhà, ta không về nữa đâu. Nhưng còn ngươi, khi xuân về xin đừng quên nở hoa.” (O plum tree before my house / I shall never return / But you do not forget to blossom / Again in the spring!)   Theo Kazantzakis thì những lời này được tìm thấy trên một giải lụa mềm giấu trong nón sắt, hoặc cuộn trong giây thắt lưng của các samurais Nhật thời xưa. Lời nhắn trên thẻ bài nói lên quyết tâm của người chiến sĩ khi ra trận, đồng thời cũng là lời nhắn gửi thật tình cảm của người chiến sĩ ấy về với gia đình, làng xã. Cây mai trước sân nhà. Một hình ảnh gần gũi, gắn liền với tâm tư của người Nhật-bản. Cây mai được nói ở đây, plum tree, không phải cây mai của người Việt chúng ta, mà là một cành anh đào. Nhưng nó cũng là loại cây thường được trồng nơi sân trước.
Về cây cảnh, cây kiểng, người Á-đông thường đưa những gì quí, đẹp khoe ra ở sân trước, những gì tập tàng tạp nhạp thì giấu ở vườn sau. Cây mai đứng đầu trong bốn loài cây quí (tứ quí: mai, lan, cúc, trúc), và nở hoa vào mùa đầu của bốn mùa (tứ thời: xuân, hạ, thu, đông). Cho nên mai đứng ở trước sân (đình tiền mai, hoặc viết gọn là đình mai).
Võ Đình rất là Huế, và rất là Tây. Chữ “quân tử” (thường được hiểu là phong cách trượng phu theo kiểu Trung Hoa) không thích hợp để gọi anh. Nhưng vẻ chân, thiện, mỹ toát ra từ biểu tượng một cành mai trước sân thì đúng là phẩm cách văn nghệ tài hoa và trung thực của con người ấy.
“Một Cành Mai,” tác phẩm cuối đời của Võ Đình, vẽ những bức tranh thủy mặc, dịch và viết về những bài thơ thiền Việt Nam, có lẽ là những gì anh muốn gửi lại cho đời, cô đọng một đời làm và sống với nghệ thuật của anh. Một con người vừa trầm mặc vừa xông xáo trong sáng tạo như anh thật hiếm có. Người ta gọi anh là Võ Đình. Tôi muốn gọi anh là Đình Mai, cội mai già trước sân. Mai có thể trải qua sống-chết, còn-mất, nở-tàn theo bốn mùa, nhưng cốt cách, phong vận của nó thì còn mãi.
California, ngày 26 tháng 7 năm 2009.
Vĩnh Hảo
Một trong những bức tranh treo trong nhà anh Võ Đình, do Nguyễn thị Lệ Liễu chụp vào năm 2007.
Ngôi nhà nhỏ có cội mai già trước sân. (Source: http://www.gio-o.com/NguyenThiLeLieuVoDinh2007.html)

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi rất thích khoa nhân chủng nhưng không có cơ may đến trường để được truyền thụ một cách bài bản về ngành học thú vị này. Hoàn cảnh sống, nói nào ngay, cũng không mấy thích hợp cho nhu cầu tự học. Suốt ngày (và suốt đời) tôi chỉ loanh quanh hàng quán nơi mà những kẻ hay lê la thường nói rất nhiều, dù sự hiểu biết của họ vốn không được bao nhiêu. Ngoài giới hạn về kiến thức, mấy ông bạn đồng ẩm còn có cái tật rất hay tranh cãi (và luôn cãi chầy cãi cối) nên mọi thông tin, từ bàn nhậu, đều không được khả xác hay khả tín gì cho lắm.
“Tham nhũng chính trị, lệch lạc tư tưởng, băng hoại đạo đức và hủ bại về lối sống. Đây là những kẻ thù rất nguy hiểm của Đảng, cần phải loại bỏ.” Tạp chí Xây Dựng Đảng (XDĐ) đã báo động như thế trong bài viết ngày 26/11/2023...
Đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) nhìn nhận tình trạng “trẻ hóa” trong suy thoái “tư tưởng chính trị ” và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đang gây khó khăn cho công tác “xây dựng, chỉnh đốn đảng”...
Năm 2024 là năm bầu cử, một năm gay go thử thách, và đề tài yêu ghét dù muốn hay không muốn đã trở lại trên các trang báo, trong các buổi tranh luận trong gia đình, ngoài xã hội. Chúc bàn tiệc trong năm của quý vị rôm rả những câu chuyện, những cuộc đối thoại bổ ích hai chiều, những thay đổi tốt đẹp. Và xin cảm ơn quý thân hữu, thân chủ đã hỗ trợ, gắn bó cùng hành trình với Việt Báo trong hơn 31 năm qua. Sau cùng là lời tri ân đến các độc giả Việt Báo: chính quý vị, những người đọc khó tính là thành trì giúp Việt Báo trở thành một tờ báo uy tín, chuyên nghiệp.
Năm 2023 tiến vào những ngày cuối cùng, nó sẽ đi qua và không bao giờ trở lại. Lịch sử sẽ đi qua nhưng những việc làm của con người sẽ tồn tại với sự khôn ngoan và ngu ngốc của đa số. Cụm từ ‘con-người-đa-số’ chỉ định ý muốn chung của đa số người. Và ‘con-người-thiểu-số’ đành phải tuân theo. Trò sinh hoạt dân chủ luôn luôn là con dao hai lưỡi có hiệu quả tùy thuộc sở thích của con người đa số. Sở thích? Một thứ tạo ra tốt lành hoặc khổ nạn. Đúng ra là cả hai, nhưng có một trong hai sẽ lớn hơn, đôi khi, lớn gấp bội phần. Nếu khổ nạn quá lớn thì cuộc sống chung sẽ thay đổi, có khi lâm vào mức tồi tệ. Chẳng hạn như trường hợp nước Đức dưới thời Hitler. Ý muốn của con người đa số đam mê nồng nhiệt ý muốn của Hitler. Cho ông ta cơ hội dẫn đầu một quốc gia quyền lực, tạo ra hiệu quả cuộc chiến thế giới thứ hai. Hậu quả tàn khốc đó do ai? Hitler? Đúng một phần.
“Tự diễn biến, tự chuyển hóa” trong Lực lượng vũ trang nhân dân là mối lo hàng đầu của đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay. Bằng chứng này đã được Tổng Bí thư đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng đưa ra tại Hội nghị Đảng ủy Công an ngày 20/12/2023 tại Hà Nội, và trong nội dung các bài viết trên báo chí chính thống của nhà nước liên quan đến Quân đội...
Người ta nên áp dụng đạo đức vào tài chính trị của Henry Kissinger như thế nào? Làm thế nào để người ta quân bình những thành tựu với những hành vi sai trái của Kissinger? Tôi đã vật lộn với những vấn đề đó từ khi Kissinger là giáo sư của tôi, và sau này là đồng nghiệp tại Đại học Harvard. Vào tháng Tư năm 2012, tôi đã giúp phỏng vấn ông trước một số lượng lớn cử toạ tại Harvard và hỏi liệu ông có làm điều gì khác đi trong thời gian làm ngoại trưởng cho các Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon và Gerald Ford không. Lúc đầu, ông nói không. Suy nghĩ lại, ông nói rằng ước mình là đã hoạt động tích cực hơn ở Trung Đông. Nhưng ông không đề cập đến Campuchia, Chile, Pakistan hay Việt Nam. Một người phản đối ở phía sau hội trường hét lên: "Tội phạm chiến tranh!"
Việt Nam có còn “độc lập” với Trung Quốc hay không sau chuyến thăm Hà Nội của Tổng Bí thư, Chủ tịch nhà nước Tập Cận Bình là thắc mắc của người dân Việt Nam. Ông Tập có mặt ở Việt Nam từ 12 đến 13 tháng 12 năm 2023 và đạt được cam kết của Tổng Bí thư đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng về “xây dựng Cộng đồng chia sẻ tương lai Việt Nam-Trung Quốc”.
Ngày nay, Chiến lược Phòng thủ Quốc gia của Hoa Kỳ – giống như chiến lược Chiến tranh Lạnh tạo chuẩn mực cho tư duy chiến lược trong những năm từ thập kỷ ‘50 đến ’80 – bị chi phối bởi một tác nhân đe dọa chính, đó là Trung Quốc. Điều này vừa cung cấp thông tin vừa tạo điều kiện cho tất cả các mối đe dọa lớn khác có thể xảy ra: Nga, Iran và Bắc Triều Tiên. Giống như thời kỳ Chiến tranh Lạnh, Hoa Kỳ hiện đang lâm vào một cuộc cạnh tranh với đối thủ duy nhất của mình, một cuộc cạnh tranh có khả năng bỏ rơi các thành tựu chính trị, kinh tế và công nghệ. Hoa Kỳ cũng đang ở trong một cuộc chạy đua vũ trang hiện đại, và trong một số trường hợp, chơi trò đuổi bắt và tranh đua để giành tình hữu nghị, gây ảnh hưởng lên các quốc gia khác trên thế giới.
Rồi vào ngày 12/12/2023, tức chỉ sau ba tháng, Việt Nam lại long trọng tiếp đón Chủ Tịch Tập Cận Bình và nói rằng hợp tác và hữu nghị với Trung Quốc là lựa chọn chiến lược của Việt Nam...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.