Thương tiếc Thầy Đạt, người tù chính trị kiên cường
Đòan Thanh Liêm
Anh chị em tù nhân chính trị chúng tôi lại vừa mới mất đi một người bạn đồng cảnh rất quý mến. Đó là Thầy Đạt, tức Hòa Thượng Thích Huệ Đăng. Thầy là người ở trong tù liên tục trong nhiều năm tại các trại A 20 Xuân Phước Tuy Hòa, Z 30A núi Chứa Chan và Z 30D Hàm Tân v.v…Vào đầu tháng 6, lúc tôi còn đang ở tại miền Đông nước Mỹ, thì từ bên nhà Thầy Thích Thiện Minh đã dùng điện thư báo ngay cho biết về sự ra đi của Hòa Thượng tại chùa Phước Duyên phía ngòai Nha Trang. Thế là sau cái chết của nhà thơ Vương Đức Lệ vào đầu năm 2008, nay với trường hợp của Thầy Đạt, anh em tù chính trị ở Hàm Tân chúng tôi lại vắng đi thêm một người bạn nữa.
Thầy Đạt bị bắt lại lần thứ hai vào cuối năm 1990 và tôi đã ở chung trại giam lúc đầu tại Khám Lớn Gia Định số 4 Phan Đăng Lưu , sát cạnh Chợ Bà Chiểu, sau thì chuyển qua Chí Hòa, rồi cuối cùng thì ra trại Z 30D ở Hàm Tân vào năm 1992. Trong hơn 5 năm ở chung trong tù với Thầy Đạt, tôi được dịp chia sẻ trao đổi rất thân tình đằm thắm với người tù kiên cường bất khuất này. Nay được tin Thầy mất, tôi xin ghi lại một số kỷ niệm thân thương với Thầy trong những ngày tháng cùng ngồi tù với nhau.
Lần đầu tiên chúng tôi gặp nhau là vào giữa năm 1991, khi một số người bị giam giữ tại Phan Đăng Lưu được ghép chung vào một vụ án với bản cáo trạng rất nặng nề với tội danh ”làm gián điệp cho ngọai bang”, “tổ chức nhằm lật đổ chánh quyền cách mạng”, “tuyên truyền chống chủ nghĩa xã hội” v.v… Thầy Đạt có nói với tôi bằng lời lẽ đày lạc quan phấn khởi, đại khái như sau “Tình hình chung ở bên ngòai rất tốt. Chế độ cộng sản ngay tại Liên Xô đang bị khủng hỏang đến độ sắp sửa bị tan rã … Vì thế ta cần bình tĩnh, không nên để sa vào trạng thái bi quan, mất tinh thần trước sự đàn áp, khủng bố như trong vụ án này…” Lời nói của Thầy quả có tác dụng trấn an, nâng đỡ tinh thần cho tôi rất nhiều, vì quả thật lúc đó sau trên một năm bị giữ trong khu biệt giam, tinh thân của tôi bị khủng hỏang nặng nề và đâm ra bi quan yếm thế.
Điều đáng ghi nhớ nhất nơi Thầy trong thời gian cùng bị biệt giam này chung với nhiều tù nhân chính trị khác ở trong khu C2, đó là ông thầy tu này thật là dài hơi, ca hát không biết mệt. Vào lúc chiều tối, các phòng đua nhau hướng ra phía cửa sổ để ca hát, ngâm thơ. Và trong số này có một anh bạn trẻ tên là Nghiêm ở chung phòng với bác sĩ Nguyễn Đan Quế và Thầy Đạt ở riêng một phòng là hai ca sĩ xuất sắc, hát liên tục có khi một lúc liền 9 - 10 bài, đủ lọai tân nhạc, cổ nhạc.
Trong khu C2 này hồi năm 91-92 đó có mấy người tù chính trị mà tôi vẫn còn nhớ được; đó là các anh Phạm Đức Khâm, Nguyễn Hữu Sơn, Nguyễn Đan Quế, Nguyễn Thanh Vân, Nguyễn Văn Trọng, hai nhà thơ Mai Trung Tĩnh, Vương Đức Lệ, các mục sư Trần Mai, Trần Đình Ái và một số anh em liên hệ đến các vụ án kinh tế khác. Vào giữa năm 1992, thì tôi bị đưa ra tòa Saigon và bị kết án 12 năm tù giam về tội danh “Tuyên truyền chống chủ nghĩa xã hội”. Còn thầy Đạt thì bị kết án 20 năm tù về tội “Hoạt động nhằm lật đổ chánh quyền cách mạng”. Cả hai chúng tôi đều không kháng cáo bản án này. Và sau ít lâu thì chúng tôi được chuyển đến nhà tù Chí Hòa, rồi sau cùng thì chuyển đến trại Z 30D ở Hàm Tân.
Thành ra thầy Đạt và tôi luôn ở sát cánh với nhau từ năm 1991 cho đến năm 1996, khi tôi được đưa từ Hàm Tân ra sân bay Tân Sơn Nhất để cùng với gia đình qua định cư tại Mỹ. Ở trại Hàm Tân, thì bớt tù túng hơn, vì chúng tôi được đi ra đồng cuốc đất trồng hoa màu, trồng thuốc lá v.v…Lại ở chung với nhiều tù hình sự phần đông còn rất trẻ, nên chúng tôi được các em này giúp đỡ lo lắng cho nhiều chuyện về sinh họat cá nhân như múc nước, kiếm củi để nấu nướng, giặt giũ quần áo. Đặc biệt là các em giúp việc thông tin qua lại với các bạn tù chính trị bị phân tán ra nhiều chỗ khác. Riêng thầy Đạt nhờ rành về Đông y, nên có dịp giúp đỡ các bạn tù khác gặp lúc đau yếu mà không có đủ thuốc men chữa chạy. Thầy còn bỏ tiền ra nhờ mấy anh em đi lao động xa ở ngòai trại như lái xe bò, coi sóc hồ cá để tìm kiếm các lọai lá cây, rễ củ về làm thuốc trị bệnh rất công hiệu. Vì thế mà các tù nhân thường rất có cảm tình với thầy, cũng như với các tù chính trị khác.
Vào các năm 1993 trở đi ở Hàm Tân, riêng tại Phân trại K2 thì có đến 30-40 tù nhân chính trị, ngưới ít nhất cũng án 5-7 năm, mà nhiều người còn bị án chung thân hay 15-20 năm. Thầy Đạt nhờ được gia đình thăm nuôi tiếp tế đều đặn, nên đã chia sẻ với các anh em khác một cách hết sức rộng rãi, thỏai mái. Nhưng điều quan trọng hơn cả là thầy luôn giữ được sự bình tĩnh, an nhiên tự tại nơi bản thân mình, và từ đó lan tỏa đến các bạn tù khác. Nhờ vậy mà góp phần nâng đỡ tinh thần kiên dũng cho lớp anh em tù chính trị bọn tôi rất nhiều.( Nhân tiện xin ghi lại tên tuổi của một số anh em tù chính trị tại phân trại K2 thuộc Z 30D Hàm Tân hồi đó. Người lớn tuổi nhất là bác Nguyễn Quốc Sủng án chung thân, rồi đến các anh Võ Thành Sắc, Võ Văn Sáu, Nguyễn Văn Thuận ( bút danh Châu Sơn Thái Vị Thủy), Phan Văn Phần, Lý Trường Trân, Nguyễn Văn Bá, Thái Văn Phiên, Hòang Đức Long, Lê Thái Chân, Phạm Đức Khâm, Đòan Viết Họat, Đòan Thanh Liêm, Tô Văn Huồn, Cao Văn Phúc, Phạm Quang Huy, Phạm Thành Công, Bùi Văn Phước, Nguyễn Trì, Kim Hên (người Khmer ở Trà Vinh), Huỳnh Văn Giàu, Trần Phước Huệ, Trần Mạnh Quỳnh, Lê Nhựt Quang, Bùi Gia Liêm, Lê Ngọc Quang, bác sĩ Trần Thắng Thức v.v…)
Với lòng tự tin vững vàng như vậy, nên đối với cán bộ coi tù, thầy luôn tỏ thái độ lịch sự nhã nhặn, không hề bao giờ có hành vi lời nói biểu lộ sự khinh khi, hoặc hận thù căm giận đối với bất kỳ cá nhân ai. Thầy cho là mình đối lập với đường lối độc tài chuyên chế của cả đảng công sản, chứ không có ân óan thù hằn gì đối với cá nhân người cán bộ nào. Phong cách xử sự theo lối quân tử như vậy được phần đông anh em tù chính trị chúng tôi đồng ý tán thành. Do vậy, mà chúng tôi vẫn giữ được sự bình thản, yên tâm giữa lúc phải sống bên trong hàng rào kẽm gai cách ly với xã hội bên ngòai.
Từ giữa năm 1994 trở đi, một số tù chính trị lớn tuổi chúng tôi lại được chuyển đến khu bệnh xá 2, biệt lập với các lán trại khác và được sinh họat với nhau khá thỏai mái, không còn phải theo một đội đi lao động bên ngòai trại như trước đây nữa. Tại khu này, người cao tuổi nhất là bác Lý Trường Trân cựu dân biểu, rồi đến bác Nguyễn Văn Bá thuộc Giáo hội Cao Đài Sadec, Thái Văn Phiên án 15 năm, trẻ tuổi nhất thì có Tô Văn Huồn vụ Lê Quốc Túy, Nguyễn Trì tức nhà thơ Trương Hùng Thái, Lê Thái Chân án chung thân. Thầy Đạt cũng ở chung với chúng tôi và lại càng dễ dàng chế biến thuốc nam để giúp các bệnh nhân trong trại. Vào thời gian này, Thượng tá Trịnh Nhu là trưởng trại, mà thường được gọi là Ban Nhu (Ban = Ban Giám thị). Ông tỏ ra quan tâm chu đáo đến các người lớn tuổi như chúng tôi tại khu bệnh xá này và cử Bác sĩ Nguyễn Trọng Cống làm cán bộ quản lý riêng đối với nhóm chừng 15 người chúng tôi, trong đó có mấy bà bị giam giữ về vi phạm luật lệ về kinh tế. Nói chung là vào thời gian năm 1994 – 96 lúc tôi rời khỏi trại Hàm Tân, thì mấy tù nhân chính trị lớn tuổi như chúng tôi được đối xử nhẹ nhàng, dễ chịu hơn các năm trước rất nhiều.
Và kể từ ngày qua định cư tại Mỹ đầu năm 1996, tôi đã có dịp gặp gỡ với thân nhân của thầy Đạt và qua đó luôn luôn trao đổi tin tức và thăm hỏi với thầy. Nhiều lần chúng tôi còn nói chuyện trực tiếp qua điện thọai với thầy nữa. Anh em cựu tù nhân chính trị ở Hàm Tân chúng tôi vẫn giữ được sự liên kết gắn bó thân thương với thầy Đạt, một người tù kiên cường bất khuất, một con người có lòng nhân hậu sâu xa, một vị tu hành đạo cao đức trọng.
Nay thầy vừa từ giã cõi đời tạm bợ này, nhưng vẫn để lại trong tâm khảm chúng tôi một hình ảnh thật cao quý, một nhân cách trong sáng, một chí khí sắt đá vững vàng.
Xin vĩnh biệt Thầy Đạt.
Xin vĩnh biệt Hòa Thượng Huệ Đăng.
California, tháng Bảy 2009
Đòan Thanh Liêm
Đòan Thanh Liêm
Anh chị em tù nhân chính trị chúng tôi lại vừa mới mất đi một người bạn đồng cảnh rất quý mến. Đó là Thầy Đạt, tức Hòa Thượng Thích Huệ Đăng. Thầy là người ở trong tù liên tục trong nhiều năm tại các trại A 20 Xuân Phước Tuy Hòa, Z 30A núi Chứa Chan và Z 30D Hàm Tân v.v…Vào đầu tháng 6, lúc tôi còn đang ở tại miền Đông nước Mỹ, thì từ bên nhà Thầy Thích Thiện Minh đã dùng điện thư báo ngay cho biết về sự ra đi của Hòa Thượng tại chùa Phước Duyên phía ngòai Nha Trang. Thế là sau cái chết của nhà thơ Vương Đức Lệ vào đầu năm 2008, nay với trường hợp của Thầy Đạt, anh em tù chính trị ở Hàm Tân chúng tôi lại vắng đi thêm một người bạn nữa.
Thầy Đạt bị bắt lại lần thứ hai vào cuối năm 1990 và tôi đã ở chung trại giam lúc đầu tại Khám Lớn Gia Định số 4 Phan Đăng Lưu , sát cạnh Chợ Bà Chiểu, sau thì chuyển qua Chí Hòa, rồi cuối cùng thì ra trại Z 30D ở Hàm Tân vào năm 1992. Trong hơn 5 năm ở chung trong tù với Thầy Đạt, tôi được dịp chia sẻ trao đổi rất thân tình đằm thắm với người tù kiên cường bất khuất này. Nay được tin Thầy mất, tôi xin ghi lại một số kỷ niệm thân thương với Thầy trong những ngày tháng cùng ngồi tù với nhau.
Lần đầu tiên chúng tôi gặp nhau là vào giữa năm 1991, khi một số người bị giam giữ tại Phan Đăng Lưu được ghép chung vào một vụ án với bản cáo trạng rất nặng nề với tội danh ”làm gián điệp cho ngọai bang”, “tổ chức nhằm lật đổ chánh quyền cách mạng”, “tuyên truyền chống chủ nghĩa xã hội” v.v… Thầy Đạt có nói với tôi bằng lời lẽ đày lạc quan phấn khởi, đại khái như sau “Tình hình chung ở bên ngòai rất tốt. Chế độ cộng sản ngay tại Liên Xô đang bị khủng hỏang đến độ sắp sửa bị tan rã … Vì thế ta cần bình tĩnh, không nên để sa vào trạng thái bi quan, mất tinh thần trước sự đàn áp, khủng bố như trong vụ án này…” Lời nói của Thầy quả có tác dụng trấn an, nâng đỡ tinh thần cho tôi rất nhiều, vì quả thật lúc đó sau trên một năm bị giữ trong khu biệt giam, tinh thân của tôi bị khủng hỏang nặng nề và đâm ra bi quan yếm thế.
Điều đáng ghi nhớ nhất nơi Thầy trong thời gian cùng bị biệt giam này chung với nhiều tù nhân chính trị khác ở trong khu C2, đó là ông thầy tu này thật là dài hơi, ca hát không biết mệt. Vào lúc chiều tối, các phòng đua nhau hướng ra phía cửa sổ để ca hát, ngâm thơ. Và trong số này có một anh bạn trẻ tên là Nghiêm ở chung phòng với bác sĩ Nguyễn Đan Quế và Thầy Đạt ở riêng một phòng là hai ca sĩ xuất sắc, hát liên tục có khi một lúc liền 9 - 10 bài, đủ lọai tân nhạc, cổ nhạc.
Trong khu C2 này hồi năm 91-92 đó có mấy người tù chính trị mà tôi vẫn còn nhớ được; đó là các anh Phạm Đức Khâm, Nguyễn Hữu Sơn, Nguyễn Đan Quế, Nguyễn Thanh Vân, Nguyễn Văn Trọng, hai nhà thơ Mai Trung Tĩnh, Vương Đức Lệ, các mục sư Trần Mai, Trần Đình Ái và một số anh em liên hệ đến các vụ án kinh tế khác. Vào giữa năm 1992, thì tôi bị đưa ra tòa Saigon và bị kết án 12 năm tù giam về tội danh “Tuyên truyền chống chủ nghĩa xã hội”. Còn thầy Đạt thì bị kết án 20 năm tù về tội “Hoạt động nhằm lật đổ chánh quyền cách mạng”. Cả hai chúng tôi đều không kháng cáo bản án này. Và sau ít lâu thì chúng tôi được chuyển đến nhà tù Chí Hòa, rồi sau cùng thì chuyển đến trại Z 30D ở Hàm Tân.
Thành ra thầy Đạt và tôi luôn ở sát cánh với nhau từ năm 1991 cho đến năm 1996, khi tôi được đưa từ Hàm Tân ra sân bay Tân Sơn Nhất để cùng với gia đình qua định cư tại Mỹ. Ở trại Hàm Tân, thì bớt tù túng hơn, vì chúng tôi được đi ra đồng cuốc đất trồng hoa màu, trồng thuốc lá v.v…Lại ở chung với nhiều tù hình sự phần đông còn rất trẻ, nên chúng tôi được các em này giúp đỡ lo lắng cho nhiều chuyện về sinh họat cá nhân như múc nước, kiếm củi để nấu nướng, giặt giũ quần áo. Đặc biệt là các em giúp việc thông tin qua lại với các bạn tù chính trị bị phân tán ra nhiều chỗ khác. Riêng thầy Đạt nhờ rành về Đông y, nên có dịp giúp đỡ các bạn tù khác gặp lúc đau yếu mà không có đủ thuốc men chữa chạy. Thầy còn bỏ tiền ra nhờ mấy anh em đi lao động xa ở ngòai trại như lái xe bò, coi sóc hồ cá để tìm kiếm các lọai lá cây, rễ củ về làm thuốc trị bệnh rất công hiệu. Vì thế mà các tù nhân thường rất có cảm tình với thầy, cũng như với các tù chính trị khác.
Vào các năm 1993 trở đi ở Hàm Tân, riêng tại Phân trại K2 thì có đến 30-40 tù nhân chính trị, ngưới ít nhất cũng án 5-7 năm, mà nhiều người còn bị án chung thân hay 15-20 năm. Thầy Đạt nhờ được gia đình thăm nuôi tiếp tế đều đặn, nên đã chia sẻ với các anh em khác một cách hết sức rộng rãi, thỏai mái. Nhưng điều quan trọng hơn cả là thầy luôn giữ được sự bình tĩnh, an nhiên tự tại nơi bản thân mình, và từ đó lan tỏa đến các bạn tù khác. Nhờ vậy mà góp phần nâng đỡ tinh thần kiên dũng cho lớp anh em tù chính trị bọn tôi rất nhiều.( Nhân tiện xin ghi lại tên tuổi của một số anh em tù chính trị tại phân trại K2 thuộc Z 30D Hàm Tân hồi đó. Người lớn tuổi nhất là bác Nguyễn Quốc Sủng án chung thân, rồi đến các anh Võ Thành Sắc, Võ Văn Sáu, Nguyễn Văn Thuận ( bút danh Châu Sơn Thái Vị Thủy), Phan Văn Phần, Lý Trường Trân, Nguyễn Văn Bá, Thái Văn Phiên, Hòang Đức Long, Lê Thái Chân, Phạm Đức Khâm, Đòan Viết Họat, Đòan Thanh Liêm, Tô Văn Huồn, Cao Văn Phúc, Phạm Quang Huy, Phạm Thành Công, Bùi Văn Phước, Nguyễn Trì, Kim Hên (người Khmer ở Trà Vinh), Huỳnh Văn Giàu, Trần Phước Huệ, Trần Mạnh Quỳnh, Lê Nhựt Quang, Bùi Gia Liêm, Lê Ngọc Quang, bác sĩ Trần Thắng Thức v.v…)
Với lòng tự tin vững vàng như vậy, nên đối với cán bộ coi tù, thầy luôn tỏ thái độ lịch sự nhã nhặn, không hề bao giờ có hành vi lời nói biểu lộ sự khinh khi, hoặc hận thù căm giận đối với bất kỳ cá nhân ai. Thầy cho là mình đối lập với đường lối độc tài chuyên chế của cả đảng công sản, chứ không có ân óan thù hằn gì đối với cá nhân người cán bộ nào. Phong cách xử sự theo lối quân tử như vậy được phần đông anh em tù chính trị chúng tôi đồng ý tán thành. Do vậy, mà chúng tôi vẫn giữ được sự bình thản, yên tâm giữa lúc phải sống bên trong hàng rào kẽm gai cách ly với xã hội bên ngòai.
Từ giữa năm 1994 trở đi, một số tù chính trị lớn tuổi chúng tôi lại được chuyển đến khu bệnh xá 2, biệt lập với các lán trại khác và được sinh họat với nhau khá thỏai mái, không còn phải theo một đội đi lao động bên ngòai trại như trước đây nữa. Tại khu này, người cao tuổi nhất là bác Lý Trường Trân cựu dân biểu, rồi đến bác Nguyễn Văn Bá thuộc Giáo hội Cao Đài Sadec, Thái Văn Phiên án 15 năm, trẻ tuổi nhất thì có Tô Văn Huồn vụ Lê Quốc Túy, Nguyễn Trì tức nhà thơ Trương Hùng Thái, Lê Thái Chân án chung thân. Thầy Đạt cũng ở chung với chúng tôi và lại càng dễ dàng chế biến thuốc nam để giúp các bệnh nhân trong trại. Vào thời gian này, Thượng tá Trịnh Nhu là trưởng trại, mà thường được gọi là Ban Nhu (Ban = Ban Giám thị). Ông tỏ ra quan tâm chu đáo đến các người lớn tuổi như chúng tôi tại khu bệnh xá này và cử Bác sĩ Nguyễn Trọng Cống làm cán bộ quản lý riêng đối với nhóm chừng 15 người chúng tôi, trong đó có mấy bà bị giam giữ về vi phạm luật lệ về kinh tế. Nói chung là vào thời gian năm 1994 – 96 lúc tôi rời khỏi trại Hàm Tân, thì mấy tù nhân chính trị lớn tuổi như chúng tôi được đối xử nhẹ nhàng, dễ chịu hơn các năm trước rất nhiều.
Và kể từ ngày qua định cư tại Mỹ đầu năm 1996, tôi đã có dịp gặp gỡ với thân nhân của thầy Đạt và qua đó luôn luôn trao đổi tin tức và thăm hỏi với thầy. Nhiều lần chúng tôi còn nói chuyện trực tiếp qua điện thọai với thầy nữa. Anh em cựu tù nhân chính trị ở Hàm Tân chúng tôi vẫn giữ được sự liên kết gắn bó thân thương với thầy Đạt, một người tù kiên cường bất khuất, một con người có lòng nhân hậu sâu xa, một vị tu hành đạo cao đức trọng.
Nay thầy vừa từ giã cõi đời tạm bợ này, nhưng vẫn để lại trong tâm khảm chúng tôi một hình ảnh thật cao quý, một nhân cách trong sáng, một chí khí sắt đá vững vàng.
Xin vĩnh biệt Thầy Đạt.
Xin vĩnh biệt Hòa Thượng Huệ Đăng.
California, tháng Bảy 2009
Đòan Thanh Liêm
Gửi ý kiến của bạn