Hôm nay,  

Ngòi Nổ Kinh Tế Tại Tân Cương

15/07/200900:00:00(Xem: 9656)

Ngòi nổ Kinh tế tại Tân Cương
Nguyễn Xuân Nghĩa & Việt Long RFA

...sắc tộc này kiềm chế sắc tộc kia hầu không ai vùng dậy được...
Vụ khủng hoảng vì xung đột sắc tộc tại Tân Cương tuần qua cho thấy nhiều vấn đề trong chiến lược phát triển kinh tế của Trung Quốc. Diễn đàn Kinh tế sẽ tìm hiểu về các vấn đề ấy qua sự phân tích của nhà tư vấn kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa trong cuộc trao đổi sau đây với Việt Long.
Việt Long: - Xin kính chào ông Nguyễn Xuân Nghĩa. Thưa ông, trong chương trình phát thanh mùng 10 tháng trước, ông nói đến hiện tượng "một quốc gia có ba nền kinh tế của Trung Quốc" và dự đoán là vì vậy mà xứ này dễ bị động loạn. Chưa đầy một tháng sau, động loạn quả nhiên đã bùng nổ vì xung đột giữa người Hán và người Uighur tại Tân Cương khiến gần 200 người thiệt mạng và cảnh sát võ trang phải vào ban bố lệnh giới nghiêm và tái lập trật tự. Vì vậy, chương trình kỳ này sẽ cùng tìm hiểu về những vấn đề kinh tế tiềm ẩn bên dưới vụ khủng hoảng. Như thông lệ, nhờ ông trước tiên trình bày cho thính giả bối cảnh của vấn đề, sau đó ta mới đi vào từng khía cạnh đáng chú ý cho Việt Nam.
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Nói về bối cảnh thì ta không quên là vì địa dư hình thể, Trung Quốc có ba khu vực nhìn từ biển Đông vào tới bên trong, nên mới có ba nền kinh tế. Khu vực thứ ba là các phiên trấn mà lãnh đạo xứ này xây dựng thành vùng trái độn quân sự để bảo vệ hai khu vực kia. Tại Tân Cương, thì sau khi chiếm lại một dải đất quy mô giữa Trung Á vào năm 1949, rộng bằng 15% diện tích toàn quốc, năm 1954, Mao Trạch Đông đã cho Tướng Hoàng Chấn vào thành lập các "binh đoàn" theo thể chế đồn điền xa xưa của họ, tức là đưa quân đội vào bảo vệ an ninh và giải quyết yêu cầu kinh tế. Tổ chức "binh đoàn" này hiện vẫn còn, là một loại doanh nghiệp nhà nước mà của quân đội quản lý.
- Khía cạnh thứ hai của bối cảnh là văn hoá. Từ ngàn xưa, lãnh đạo Trung Quốc củng cố vai trò thống trị của Hán tộc trên các sắc dân thiểu số khác mà họ khinh miệt nhưng cũng rất rợ vì đã nhiều lần bị các dị tộc ấy tấn công và cai trị trong lịch sử. Tiềm ẩn bên dưới là niềm tin rằng sau cùng thì Hán tộc sẽ đồng hoá được các sắc tộc kia. Ngày nay, tinh thần ấy dẫn tới một chính sách "di dân nội địa" nhằm pha loãng mật độ tập trung của các sắc dân bản địa bởi nhiều đợt tái định cư người Hán trong các khu vực của dân thiểu số mà họ gọi là "đặc khu tự trị". Trung Quốc có năm đặc khu như vậy, tại Quảng Tây, Tây Tạng, Tân Cương, Ninh Hạ và Nội Mông.
Việt Long: Ông nói đến vấn đề "di dân nội địa", hiện tượng đó có nghĩa là gì"
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Dưới chế độ Cộng sản, Bắc Kinh có áp dụng phương pháp dời dân để dễ cai trị của Liên Xô, sau 1975, lãnh đạo Hà Nội cũng đã áp dụng phương pháp đó. Liên Xô thời Stalin đã từng dời cả một tập thể sắc tộc ra khỏi bản địa của họ đi qua một xứ khác, như với người Cao Ly từ Đông Bắc Á bị đưa vào Trung Á, hoặc đã vẽ lại biên giới các nước Trung Á để sắc tộc này kiềm chế sắc tộc kia hầu không ai vùng dậy được.
- Lãnh đạo Bắc Kinh lại hơi khác. Họ để dân thiểu số ở lại bản địa và đưa người Hán vào sinh sống ngày một đông hơn trong các khu tự trị để dùng cả kinh tế lẫn văn hoá hội nhập hay thực tế là đồng hóa người thiểu số. Nhưng sau ba chục năm cải cách kinh tế kể từ năm 1979 thì chiến lược di dân ấy bắt đầu gây ra vấn đề, về cả kinh tế lẫn chính trị.
Việt Long: Các vấn đề ấy là gì và ảnh hưởng thế nào đến vụ khủng hoảng Tân Cương hiện nay"
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Thứ nhất là chiến lược phát triển của Trung Quốc đào sâu dị biệt về lợi tức và nhận thức giữa các khu vực - và trong từng khu vực, dị biệt giữa nông thôn với thành thị. Lồng trong hiện tượng chung đó là dị biệt giữa các sắc dân thiểu số tập trung tại khu vực nghèo hay tại thôn quê với đa số người Hán được sinh sống ở nơi thù phú hơn, hoặc trong từng khu vực thì tập trung ở thành phố.
- Một thí dụ cụ thể tại Tân Cương thì dân Uighurs, hay Duy Ngô Nhĩ, trước đây là đa số tuyệt đối, người Hán chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ là 6%. Ngày nay, trên tổng số gần 20 triệu dân thì người Hán chiếm khoảng 40%; riêng tại thủ phủ Urumqi hay Ô Lỗ Mộc Tề thì dân số người Hán chiếm 73%, còn lại 27% là dân Uighurs và các sắc tộc còn thiểu số hơn. Hố sâu dị biệt này vốn dĩ đã mở rộng trên toàn quốc và là vấn đề chúng ta đã nhiều lần phân tích, nay càng trở thành nghiêm trọng hơn với phản ứng của sắc dân thiểu số.
Việt Long: Tất nhiên là lãnh đạo Bắc Kinh có thấy vấn đề ấy nhưng họ giải quyết ra sao"
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Họ đã thấy ra vấn đề từ cả chục năm nay và giải quyết qua nhiều đợt.
- Thứ nhất, Thủ tướng Chu Dung Cơ tung ra kế hoạch xin gọi là "Tây Tiến" từ năm 1998 để tích cực đầu tư vào các tỉnh miền Tây. Mục đích là thu hẹp khoảng cách giàu nghèo giữa các tỉnh miền Đông với khu vực nội địa và các vùng phiên trấn hay tự trị, đặc biệt là tại Tân Cương, nơi có nhiều khoảng sản và là một trung tâm nguyên tử và không gian của họ.
- Kế tiếp, thế hệ lãnh đạo sau Giang Trạch Dân và Chu Dung Cơ, như Hồ Cẩm Đào hay Ôn Gia Bảo, thì thấy ra mối nguy xung đột sắc tộc nên cho phép đưa dân thiểu số, như người Tây Tạng hay Uighur, ra khỏi bản địa sinh hoạt truyền thống của họ để kiếm sống tại nơi khác trong khi tiếp tục đưa người Hán về đấy. Trong thành phần họ gọi là "dân công" - là nông dân nghèo đi vào thành thị kiếm việc ở tỉnh khác - đã có khá nhiều người thiểu số, với hy vọng là họ kiếm ra việc và ra tiền gửi về nhà cho thân nhân cải thiện mức sống. Nhưng họ tiếp tục bị người Hán nghi ngờ, bạc đãi hay khinh thường, vì bị coi là công dân hạng nhì, kém văn hoá và man rợ, thổ phỉ...


- Vì đã từng là Bí thư Tây Tạng, Chủ tịch Hồ Cẩm Đào hiểu ra chuyện nguy hiểm ấy nên tìm cách nâng đỡ dân thiểu số, như cho phép họ được một số đặc quyền về giáo dục và đào tạo hoặc không bị hạn chế bởi chính sách kế hoạch hoá gia đình theo đó mỗi gia đình chỉ có một con.
Việt Long: Thế chính sách nâng đỡ ấy có kết quả gì không mà vì sao giờ này lại có động loạn"
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Chính sách nâng đỡ ấy gây tác dụng ngược là làm người Hán bất mãn! Chúng ta sẽ còn trở lại chuyện này.
- Chỉ xin nói tiếp rằng lãnh đạo Bắc Kinh còn tiến hành nhiều chương trình giải quyết khác tại các nơi ấy. Là một quốc gia đói ăn và khát dầu, Trung Quốc tích cực đầu tư vào công nghiệp khoáng sản Tân Cương và mở rộng việc mua bán năng lượng với các nước Cộng hoà Trung Á ở bên kia biên giới, cụ thể là dự án lập ống dẫn dầu rồi dẫn khí qua xứ Kazahkstan để mua năng lượng tại Trung Á và vào tới Cận Đông. Dự án này khởi sự từ 2005 và một ống dẫn dầu vừa hoàn tất hôm mùng một tháng này. Tân Cương vì vậy thành địa bàn chiến lược về cả an ninh lẫn kinh tế.
- Song song, họ mở chiến dịch giao tế với dư luận quốc tế về tinh thần gọi là "xã hội hài hòa" của Trung Quốc, cho báo chí ngoại quốc ra vào Tân Cương tương đối dễ dàng hơn là vào Tây Tạng. Cùng chiến dịch tuyên truyền ấy, họ đưa ra lập luận là Trung Quốc không có nội loạn mà chỉ có bọn xấu nước ngoài muốn can thiệp vào nội tình Tây Tạng hay Tân Cương, nhằm đả kích bất cứ ai nêu vấn đề. Riêng tại Tân Cương, lãnh đạo Bắc Kinh khai thác mối lo về khủng bố Hồi giáo của thế giới để tấn công mọi xu hướng đòi tự trị là cấu kết với khủng bố để cô lập họ.
Việt Long: Ông vừa trình bày hàng loạt biện pháp chống đỡ và giải quyết mâu thuẫn về sắc tộc, kết quả của các biện pháp ấy là gì mà bây giờ họ lại bị động loạn"
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Chúng ta trở lại chuyện "nhân"và "duyên" về kinh tế!
- Về cái nhân, việc mở mang khu vực phiên trấn này dẫn tới kết quả trước tiên là người Hán vẫn được ưu đãi hơn và chiếm lĩnh cả đặc quyền chính trị lẫn đặc lợi kinh tế. Cụ thể là mức sống dân cư có tăng, nhưng của người Hán lại tăng mạnh hơn, nên dị biệt sắc tộc không được san bằng mà bị đào sâu thêm. Thứ hai, với chính sách dời dân thiểu số sống trà trộn trong khu vực Hán tộc, mâu thuẫn trong sinh hoạt thường nhật rất dễ xảy ra. Mâu thuẫn càng dễ xảy ra vì cái "duyên" là nạn suy thoái kinh tế hiện nay khiến nhiều người thất nghiệp và bị đẩy về quê cũ, là điều chúng ta đã đề cập tới. Trong khi ấy - và đây là một hậu quả khác - nhiều người Hán bình thường đang sợ mất việc thì lại bất mãn khi thấy một số sắc tộc ít người lại được ưu đãi về giáo dục hay xã hội. Họ cảm thấy như bị kỳ thị ngược và trút nỗi bất mãn đó vào dân thiểu số đang sinh sống bên cạnh, có khi trong cùng một hãng xưởng.
- Vì vậy, một vụ xung đột trong hãng Early Light International của thị trấn Thiều Quan ở tỉnh Quảng Đông vào đêm 25 Tháng Sáu đã khiến hai người Uighurs bị thiệt mạng, 600 người bị bắt. Mười ngày sau, dân Uighurs tại thủ phủ Urumqi bên Tân Cương không thấy nhà chức trách công bố kết quả điều tra vì sao mà hai đồng bào của họ bị sát hại tại Thiều Quan nên đã biểu tình. Xung đột bùng nổ từ đó khiến Chủ tịch Hồ Cẩm Đào sắp tham dự Thượng định G-8 tại Ý đã phải bỏ về để giải quyết.
- Nghĩa là Trung Quốc không chỉ bị động loạn vì sự bất mãn có sẵn của Hán tộc với nhau, tại thôn quê và thành thị, mà còn gặp động loạn vì xung đột sắc tộc. Mà càng muốn thỏa mãn hoặc bênh vực người Hán thì càng gây sức ép trên người thiểu số. Trước mắt thì lãnh đạo đảng tại Tân Cương hay Tây Tạng - là những người được Hồ Cẩm Đào cất nhắc để phần nào tái phân lợi tức về các khu vực đó - có thể mất chức, tư thế của Hồ Cẩm Đào sẽ bị suy yếu. Hậu quả là kế hoạch tái phân lợi tức từ các tỉnh duyên hải về các tỉnh nghèo cũng bị cản trở và Trung Quốc càng khó thoát khỏi mâu thuẫn cơ bản của mình. Đây là ta chưa nói tới khía cạnh quốc tế của nhiều mâu thuẫn rất khó hàn gắn.
Việt Long: Ông muốn nói tới hậu quả quốc tế của vụ khủng hoảng hiện nay tại Tân Cương"Hậu quả đó là những gì"
Nguyễn Xuân Nghĩa: - Khi muốn tìm nguồn dầu khí đưa từ Trung Á về Tân Cương và miền Tây, Trung Quốc đụng vào quyền lợi của Liên bang Nga trong khu vực có ảnh hưởng truyền thống của Nga. Vì vậy mà Nga có chiều hướng hợp tác về năng lượng với Nhật Bản và Mông Cổ, một quốc gia nay đã có dân chủ và độc lập và là nguồn cám dỗ cho sáu triệu dân Mông Cổ đang sống rất cực khổ tại Trung Quốc.
- Cũng vì kế hoạch năng lượng Trung Á này mà Trung Quốc cạnh tranh với xứ Turkey, tức là Thổ Nhĩ Kỳ, về mạng lưới các ống dẫn dầu và khí đốt từ Trung Á về Cận Đông. Vì vậy mà ngay sau chuyến thăm viếng Trung Quốc và Tân Cương đầy tình hữu nghị, lãnh đạo Turkey bỗng dưng bênh vực dân Uighurs, vốn có cùng xuất xứ, văn hoá, tôn giáo là đạo Hồi và ngôn ngữ của người Thổ. Chuyện ấy gây vấn đề về thể diện ngoại giao cho lãnh đạo Bắc Kinh.
- Thứ ba, càng kết án ngoại quốc can thiệp vào nội tình Trung Quốc và tố cáo dân Uighurs là khủng bố, Bắc Kinh càng khiến nhiều lực lượng Hồi giáo quá khích chú ý đến Tân Cương, thậm chí yểm trợ các nhóm quá khích nơi đây tiến hành khủng bố, và tấn công quyền lợi của Trung Quốc ở các nước Á Phi mà họ gọi là cơ sở của chế độ "thực dân mới".
- Tổng kết lại, vụ khủng hoảng này chưa thể làm chế độ sụp đổ nhưng phơi bày ra nhược điểm kinh tế của một quốc gia ngang ngược và soi mòn tư thế lãnh đạo của Bắc Kinh. Yếu tố chính trị ấy càng dễ gây động loạn và đáng là bài học cho lãnh đạo tại Hà Nội trên rất nhiều khía cạnh, kể cả sự thần phục Bắc Kinh hay hâm mộ chiến lược phát triển kiểu Trung Quốc.
Việt Long: Xin cám ơn ông Nguyễn Xuân Nghĩa.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Một quan điểm lạc quan đang dấy lên trong hàng ngũ Lãnh đạo đảng CSVN khi bước vào năm 2024, nhưng thực tế tiềm ẩn những khó khăn chưa lường trước được...
Nếu Donald Trump giành lại được Nhà Trắng vào tháng 11, năm nay có thể đánh dấu một bước ngoặt đối với quyền lực của Mỹ. Cuối cùng, nỗi sợ hãi về tình trạng suy tàn đã khiến cho người Mỹ bận tâm kể từ thời thuộc địa sẽ được biện minh. Hầu hết người Mỹ tin rằng, Hoa Kỳ trong tình trạng suy tàn, Donald Trump tuyên bố rằng ông có thể “Làm cho nước Mỹ vĩ đại trở lại”. Nhưng tiền đề của Trump đơn giản là sai, và các biện pháp trị liệu được ông đề xuất đặt ra mối đe dọa lớn nhất đối với nước Mỹ.
Đảng CSVN hay nói “Trí thức là “nguyên khí của quốc gia”, làm hưng thịnh đất nước, rạng rỡ dân tộc*; “Trí thức là vốn liếng quý báu của Dân tộc”; hay “Thanh niên là rường cột của nước nhà” , nhưng tại sao nhiều người vẫn ngại đứng vào hàng ngũ đảng? Lý do vì đảng chỉ muốn gom Trí thức và Thanh niên “vào chung một rọ để nắm tóc”...
Tây Bắc hay Tây Nguyên thì cũng chừng đó vấn đề thôi: đất đai, tôn giáo, chủng tộc… Cả ba đều bị nhũng nhiễu, lũng đoạn tới cùng, và bị áp chế dã man tàn bạo. Ở đâu giới quan chức cũng đều được dung dưỡng, bao che để tiếp tục lộng quyền (thay vì xét sử) nên bi kịch của Tây Nguyên (nói riêng) và Cao Nguyên (nói chung) e sẽ còn dài, nếu chế độ toàn trị hiện hành vẫn còn tồn tại...
Bữa rồi, nhà thơ Inra Sara tâm sự: “Non 30 năm sống đất Sài Gòn, tôi gặp vô số người được cho là thành công, thuộc nhiều ngành nghề, đủ lứa tuổi, thành phần. Lạ, nhìn sâu vào mắt họ, cứ ẩn hiện sự bất an, lo âu.” “Bất an” có lẽ không chỉ là tâm trạng của người Sài Gòn mà dường như là tâm cảm chung của toàn dân Việt – không phân biệt chủng tộc, giới tính hay giai cấp nào ráo trọi – nhất là những kẻ sắp từ giã cõi trần. Di Cảo của Chế Lan Viên và di bút (Đi Tìm Cái Tôi Đã Mất) của Nguyễn Khải, theo nhận xét của nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn, chỉ là những tác phẩm “cốt để xếp hàng cả hai cửa. Cửa cũ, các ông chẳng bao giờ từ. Còn nếu tình hình khác đi, có sự đánh giá khác đi, các ông đã có sẵn cục gạch của mình ở bên cửa mới (bạn đọc có sống ở Hà Nội thời bao cấp hẳn nhớ tâm trạng mỗi lần đi xếp hàng và không sao quên được những cục gạch mà có lần nào đó mình đã sử dụng).”
Tập Cận Bình tin rằng lịch sử đang dịch chuyển theo hướng có lợi cho mình. Trong chuyến thăm Vladimir Putin tại Matxcơva vào tháng 3 năm ngoái, nhà lãnh đạo Trung Quốc nói với Tổng thống Nga rằng “Ngay lúc này, chúng ta đang chứng kiến một sự thay đổi chưa từng thấy trong 100 năm qua, và chúng ta đang cùng nhau thúc đẩy sự thay đổi ấy.”
Sau 20 năm chiêu dụ Kiều bào về giúp nước không thành công, đảng CSVN lại tung ta Dự án “Phát huy nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngoài phục vụ phát triển đất nước trong tình hình mới” vào dịp Tết Nguyên Đán Giáp Thìn 2024. Đây là lần thứ tư, từ khi có Nghị quyết 36-NQ/TW ngày 26 tháng 3 năm 2004, một Quyết định nhằm mưu tìm đầu tư, hợp tác khoa học, kỹ thuật và tổ chức các Hội, Đoàn người Việt ở nước ngoài, đặt dưới quyền lãnh đạo của đảng CSVN được tung ra...
Khi số lượng di dân vượt biên bất hợp pháp qua biên giới Hoa Kỳ-Mexico tăng cao kỷ lục, câu hỏi quan trọng được đặt ra là: Làm thế nào mà Hoa Kỳ lại rơi vào tình trạng này, và Hoa Kỳ có thể học hỏi những gì từ cách các quốc gia khác ứng phó với các vấn đề an ninh biên giới và nhập cư. Chào đón công dân nước ngoài đến với đất nước của mình là một việc khá quan trọng để giúp cải thiện tăng trưởng kinh tế, tiến bộ khoa học, nguồn cung ứng lao động và đa dạng văn hóa. Nhưng những di dân vào và ở lại Hoa Kỳ mà không có thị thực hoặc giấy tờ hợp lệ có thể gây ra nhiều vấn đề – cho chính bản thân họ và cho cả chính quyền địa phương bởi tình trạng quá tải không thể kịp thời giải quyết các trường hợp xin tị nạn tại tòa án nhập cư, hoặc cung cấp nơi ở tạm thời và các nhu cầu cơ bản khác. Mà tình trạng này hiện đang xảy ra ở rất nhiều nơi ở Hoa Kỳ.
Trên vai những pho tượng trắng trong vườn Lục Xâm Bảo, lá vàng đã bắt đầu rơi lất phất. Mùa Thu Paris thật lãng mạn. Henry Kissinger đi dạo quanh một hồ nhỏ ở ngoại ô gần Rambouillet. Nơi đây từng cặp tình nhân đang nắm tay nhau bên những cành cây la đà bóng hồ. Ông thấy lòng mình nao nao (melancholic) vì sắp tới phiên họp quan trọng nhất với ông Lê Đức Thọ.
Tôi nghe nhiều người tỏ ý bi quan về hiện cảnh cũng như tương lai (đen tối) của Việt Nam. Dân tộc nào, số phận đó. Một đất nước có những người viết sử và làm luật (cỡ) như ông Dương Trung Quốc thì… đen là phải!
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.