Hôm nay,  

Tặng Dữ Trong Khốn Khổ

26/03/200900:00:00(Xem: 6186)

Tặng dữ trong Khốn khổ

Nguyễn Xuân Nghĩa & RFA
...tẩu tán tư bản hay ‘capital flight’, là tiền được rút chạy khỏi Việt Nam...

Biến động kinh tế toàn cầu khiến một hiện tượng kinh tế đang được chú ý là số lượng tiền do thân nhân từ nước ngoài gửi về cho gia đình tại các nước nghèo cũng giảm sút đáng kể. Diễn đàn Kinh tế hàng tuần sẽ tìm hiểu về hiện tượng đó qua cuộc trao đổi do Việt Long đài RFA thực hiện sau đây cùng nhà tư vấn kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa.
Hỏi 1: Xin kính chào ông Nguyễn Xuân Nghĩa. Các nước đang phát triển trên thế giới nói chung đều cần tới các các khoản thu nhập ngoại tệ quan trọng là xuất khẩu và đầu tư từ nước ngoài. Một nguồn ngoại tệ đáng kể là lượng tiền của thân nhân từ ngoại quốc gửi về giúp đỡ gia đình ở nhà. Khi kinh tế toàn cầu bị chấn động nặng, ngần ấy nguồn tiền đều cạn dần, kể cả tiền giúp đỡ của thân nhân từ nước ngoài. Chương trình chuyên đề kỳ này sẽ tìm hiểu riêng về hiện tượng ấy như ông có nói tới trong một kỳ trước. Đầu tiên, xin ông nói về bối cảnh của vấn đề.
- Câu trả lời của tôi trước hết là về lẽ chính danh, hay tên gọi cho đúng của loại chuyển ngân này. Nói chung, Việt Nam ưa gọi lượng tiền này là "kiều hối", và tôi trộm nghĩ là thiếu chuẩn xác!
- "Kiều hối" có thể là tiền của công dân Việt Nam, hay "Việt kiều", gửi từ nước ngoài về nhà và trường hợp ấy áp dụng cho thành phần lao động từ Việt Nam đi làm ở bên ngoài gửi về cho thân nhân. Thành phần ấy chủ yếu làm việc tại các nước Đông Á hay Trung Đông, một số nhỏ tại Đông Âu. Sau khi bị cơ quan môi giới về lao động trưng thu từ trước thì lượng tiền của họ thật ra cũng ít nếu so với số tiền của người Việt sinh sống ở hải ngoại từ đã lâu, đa số là dân tỵ nạn đã thụ đắc quốc tịch của nước khác và hết là công dân Việt Nam. Thành phần này tập trung tại Hoa Kỳ, Canada, Úc và các nước Âu Châu. Chưa chắc họ đã muốn bị gọi là "Việt kiều", hoặc bị ràng buộc vào luật pháp Nhà nước Việt Nam áp dụng cho người Việt trong nước. Cho nên chữ "kiều hối" có thể thiếu chính xác về xuất xứ kinh tế và nhập nhằng về nội dung chính trị.
Hỏi: Ông nêu ra một vấn đề khá độc đáo! Nhưng xin hỏi ông là mình có thể dùng chữ nào khác cho thích hợp với lẽ chính danh như ông nói"
- Ta có thể gọi như dân Nhật là "tống kim", với chữ "tống" có ý là làm quà như "phụng tống". Ta cũng có thể gọi là "thuận kim" hay "thuận hối" như người Hoa, với chữ "thuận" có nghĩa là làm việc gì đó hợp với lẽ phải hay đạo lý con người. Chữ "tặng dữ" đã được dùng trong kinh tế học cũng là một từ mà ta dùng được vì nhấn mạnh tới động lực là tự nguyện cho người khác.
- Dù sao, những từ ấy vẫn đúng về kinh tế mà không gây vấn đề chính trị. Đây không là chuyện nhỏ mà liên hệ đến kinh tế khi lao động nước ngoài đang giảm và lượng "kiều hối" bị hao hụt nặng, khiến nhiều người trong nước phải mong đợi nhiều ở số tiền do đồng bào hay thân nhân sinh sống ở hải ngoại từ đã lâu vẫn thường gửi về giúp đỡ.
Hỏi: Không ngờ là ông lại khó tính như vậy trong cách gọi tên của từng nguồn tiền! Nhưng phải chăng điều ấy cũng có lý do về kinh tế lẫn chính trị"
- Và về kinh tế chính trị học nữa, thưa ông!
- Tôi xin giải thích cho rõ ràng hơn: hoàn cảnh của Việt Nam rất khác với đại đa số quốc gia đang phát triển khác trong ý nghĩa là tại các xứ khác thì lượng "kiều hối" như ta nói chiếm tỷ lệ lớn trong số ngoại tệ gửi về nhà và suy thoái kinh tế toàn cầu đang gây vấn đề cho họ.
- Tại Việt Nam, vì hoàn cảnh lịch sử bi đát, đa số hơn ba triệu người đang sống tại hải ngoại là dân tỵ nạn đã lập nghiệp và sống hẳn ở nước ngoài mà vẫn đều đặn gửi tiền về cho thân nhân với số lượng cao, có thể lên tới 10% tổng số thu nhập của hơn 86 triệu người ở nhà. Ảnh hưởng kinh tế của nguồn tiền ấy cũng khác vì vậy mà ta cần phân biệt!
Hỏi: Bây giờ, xin hãy nói về hiện tượng chung trước khi trở lại chuyện riêng của Việt Nam. Có phải là suy thoái kinh tế đang đánh sụt lượng tiền tặng dữ đó không" 
- Trong giai đoạn kinh tế phát đạt, các nước đang phát triển đã nhận được khoản tặng dữ đáng kể của thân nhân. Từ năm 1996, lượng tiền này còn cao hơn viện trợ chính thức mà một số quốc gia nhận được. Từ năm 2002 đến 2007, tiền tặng dữ của các nước Âu Châu hay Trung Á tăng 175% và trên toàn thế giới thì lên tới gần 230 tỷ vào năm 2006, 265 tỷ vào năm 2007. Mấy con số trên của Ngân hàng Thế giới đều là dự đoán nên thấp hơn thực tế như ta sẽ xét sau.
- Tình hình sa sút kể từ quý ba năm ngoái và ngày càng sa sút hơn trên toàn thế giới. Tăng mạnh nhất rồi bị hụt nặng nhất là các xứ Phi Châu miền Nam Sahara, kế tiếp là Âu Châu và Trung Á. Nói chung thì nước nào cũng vậy nhưng càng lệ thuộc nhiều vào nguồn tặng dữ ấy - như xứ khác lệ thuộc vào xuất cảng hay đầu tư nước ngoài - thì xã hội càng gặp khó khăn. Khi mà kinh tế suy trầm, trước hết ở các nước giàu nhất và xuất xứ lớn nhất của nguồn tặng dữ từ thân nhân, thì đầu tư nước ngoài suy sụp đầu tiên vì tư bản rút tiền về trước, sau đó mới là sút giảm xuất khẩu và sau cùng, kể từ năm nay là số tặng dữ. Cho nên ta phải chờ đợi là nguồn tặng dữ này sẽ còn giảm mạnh trong những tháng tới.
Hỏi: Nếu có thể trình bày một bức tranh toàn cảnh thì tình hình sẽ ra sao cho các nước này"


- Có nhiều quốc gia mà tặng dữ của thân nhân lên tới hơn một phần ba của sản lượng GDP nên rất dễ bị khủng hoảng như trường hợp của Moldovia tại Âu Châu, Tajikistan hay Kyrgyzstan tại Trung Á hoặc cả xứ Lào tại Đông dương. Các nước kế tiếp là Afghanistan, Guyana, Albania, Bosnia-Herzegovina, Armenia, Georgia hay Honduras và El Salvador.
- Một số quốc gia có tỷ lệ tặng dữ thấp hơn so với sản lượng nội địa cũng vẫn bị khó khăn. Theo thống kê năm 2007 thì nhận nhiều tiền nhất là Ấn Độ được 30 tỷ, Trung Quốc 27 tỷ, Mexico chừng 24 tỷ, sau đó là Ba Lan với 11 tỷ, Nigera, Egypt hay Romania chừng 9-10 tỷ. So với sản lượng thì khoản tiền ấy chỉ bằng cỡ 5-7% tổng sản lượng, nhưng nếu kinh tế sa sút thêm thì đấy cũng là vấn đề.
- Bây giờ, nói về hậu quả thì ta nên nhớ rằng tặng dữ không hẳn là tiền đầu tư mà là tiền tươi cho ngân sách gia đình, nên nguồn viện trợ đó mà giảm là nhiều gia đình sẽ đói, nhất là tại các nước chưa có chế độ an sinh phúc lợi cho các hộ nghèo. Một hậu quả khác là lao động ở nước ngoài nay hết việc bị trả về, nên lực lượng nhân công hồi hương càng gây sức ép thất nghiệp ở nhà, vốn có thể tăng gấp năm lần năm ngoái. Nếu họ cố sống cầm hơi để chờ kinh tế phục hồi ở quốc gia tiếp nhận thì cũng có thể gây nên hiềm khích hay kỳ thị, và người ta nên lo cho số phận của họ.
Hỏi: Bây giờ, ta nói về Việt Nam. Nguồn tặng dữ ấy tất nhiên sút giảm vì lao động ở nước ngoài mất việc và vì các nền kinh tế Mỹ, Âu hay Úc đều khó khăn nên đánh sụt lợi tức của cộng đồng người Việt hải ngoại. Vì thế làm giảm số tiền gửi về nhà, trong hai tháng đầu năm đã giảm từ 7 đến 16% như một số ngân hàng Việt Nam vừa mới báo cáo. Ông nghĩ sao về hiện tượng này"
- Về trường hợp Việt Nam, tôi e rằng mình cần phân biệt vài chuyện đặc thù so với xứ khác.
- Thứ nhất, đa số lượng tiền tặng dữ này không gửi qua hệ thống ngân hàng mà gửi qua các hãng chuyển tiền quốc tế, tư nhân và những đường dây riêng nên thường cao hơn con số chính thức. Sự sút giảm cũng thế. Thành phần lao động ở nước ngoài có thể vẫn gửi qua hệ thống ngân hàng và bị kiểm soát kỹ từ gốc, chứ các thành phần kia thì không mấy tin vào ngân hàng trong nước nên tìm ngả nhanh gọn hay đáng tin hơn, chưa kể là hoa hồng còn rẻ hơn.
- Thứ hai, số chính thức năm ngoái là tám tỷ Mỹ kim có thể còn ít so với số tiền ở nhà thực sự nhận được, và đã bằng 10% tổng sản lượng của Việt Nam. Trong số này, có lẽ đến ba phần tư là xuất phát từ Hoa Kỳ và hơn nửa là từ hai miền Nam và Bắc California, là những nơi kinh tế đang bị sa sút nặng nhất, có tỷ lệ thuế khoá và thất nghiệp cao nhất.
- Về mặt xã hội, ta cần phân biệt là tiền của giới lao động ở nước ngoài gửi về có thể ít hơn mà phân tán rộng hơn tại các tỉnh miền Bắc Việt Nam, trong khi tặng dữ của người Việt hải ngoại lại nhiều hơn gấp bội, thường tập trung vào các tỉnh miền Nam và các thành phố lớn. Hiện tượng ấy có góp phần đào sâu dị biệt về lợi tức của từng vùng.
Hỏi: Liệu chúng ta có thể có được những dự báo cập nhật về lượng tiền tặng dữ không"
- Mình khó biết được con số của năm 2009, nhưng căn cứ trên tình hình kinh tế sa sút của các quốc gia xuất xứ như Mỹ, Âu hay Úc hay Canada và hoàn cảnh khó khăn của người Việt tại đó thì lượng tiền tặng dữ do thân nhân gửi về có thể giảm ít ra phân nửa. Nếu được năm tỷ đô la là mừng vì kinh tế của các xứ này, nhất là tại Mỹ, phải hồi phục trước thì năm sáu tháng sau cộng đồng người Việt tại đấy mới dễ thở, kiếm ra việc làm để rồi tiếp tục gửi tiền về cho thân nhân. Vì vậy, từ nay đến cuối năm, tiền tặng dữ sẽ còn giảm, mà đấy chưa là vấn đề.
Hỏi: Ông nói rằng đấy chưa là vấn đề vì còn thấy chuyện gì nữa về luồng tiền này" Phải chăng vì chính sách ngoại hối định giá đồng bạc quá thấp để kích thích xuất khẩu"
- Tôi thiển nghĩ rằng tỷ giá chỉ là vấn đề nhỏ vì đồng Mỹ kim vẫn tiếp tục lên giá. Vấn đề nó nằm ở chỗ khác, là luồng tư bản biết chảy ngược xuôi - ra và vào Việt Nam.
- Một thí dụ là khi gửi tiền về nhà, ở ngoài phải trả hoa hồng chừng 1%, ngược lại từ Việt Nam gửi ra thì mất 5% trị giá số tiền gửi. Điều ấy cho thấy là vẫn có người gửi tiền ra ngoài. Họ là ai" Tất nhiên không phải là thân nhân vất vả của những người có từ tâm ở hải ngoại gửi tiền về.
- Thứ hai, rất nhiều trường hợp mà tiền gửi về nhà chỉ được bút ghi trong sổ kế toán và vẫn nằm ở ngoài vì cơ sở trung gian không bỏ tiền của ta vào cặp đem về đưa người thừa hưởng ở nhà. Trong khi ấy, đối tác ở bên nhà của cơ sở trung gian lại nhận tiền của ai khác để trao lại cho người thừa hưởng. Vì vậy, nghiệp vụ chuyển tiền về nhà gồm có hai chiều, tiền gửi về nhà cũng là cơ hội cho người ở nhà chuyển tiền ra ngoài!
- Ở nhà, người nhận và người gửi tiền ra ngoài là hai thành phần khác nhau. Con số tám tỷ gửi về có thể là tặng dữ cho nhiều gia đình đỡ khổ, nhưng đối giá của nó lại là tiền mà kinh tế học gọi là "tẩu tán tư bản" hay "capital flight", là tiền được rút chạy khỏi Việt Nam. Bây giờ, khi kinh tế bên ngoài sa sút, một số gia đình ở nhà có thể bị khó khăn chứ người có chức có quyền, tức là có tiền, thì vẫn không thiếu cách đem tiền ra ngoài, có khi họ gọi đó là đầu tư!
Xin cám ơn ông Nguyễn Xuân Nghĩa.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ngày 30 tháng 4 năm 2025 là một ngày có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong lịch sử Việt Nam đương đại, cũng là dịp để chúng ta cùng nhau hồi tưởng về ngày 30 tháng 4 năm 1975 và những gì mà dân tộc đã sống trong 50 năm qua. Ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã kết thúc chiến tranh và đáng lẽ phải mở ra một vận hội mới huy hoàng cho đất nước: hoà bình, thống nhất và tái thiết hậu chiến với tinh thần hoà giải và hoà hợp dân tộc. Nhưng thực tế đã đánh tan bao ước vọng chân thành của những người dân muốn có một chỗ đứng trong lòng dân tộc.
Điều thú vị nhất của nghề làm báo là luôn có sự mới lạ. Ngày nào cũng có chuyện mới, không nhàm chán, nhưng đôi khi cũng kẹt, vì bí đề tài. Người viết, người vẽ, mỗi khi băn khoăn tìm đề tài, cách tiện nhất là hỏi đồng nghiệp. Ngày 26 tháng 3, 1975, hoạ sĩ Ngọc Dũng (Nguyễn Ngọc Dũng: 1931-2000), người dùng bút hiệu TUÝT, ký trên các biếm hoạ hàng ngày trên trang 3 Chính Luận, gặp người viết tại toà soạn, hỏi: “Bí quá ông ơi, vẽ cái gì bây giờ?”
Sau ngày nhậm chức, Tổng thống Donald Trump đã ban hành hàng loạt sắc lệnh hành pháp và bị một số tòa án tiểu bang chống đối và hiện nay có hơn 120 vụ tranh tụng đang được xúc tiến. Trump cũng đã phản ứng bằng những lời lẽ thoá mạ giới thẩm phán và không thực thi một số phán quyết của tòa án. Nghiêm trọng hơn, Trump ngày càng muốn mở rộng quyền kiểm soát hoạt động của các công ty luật và công tố viên nghiêm nhặt hơn. Trong khi các sáng kiến lập pháp của Quốc hội hầu như hoàn toàn bị tê liệt vì Trump khống chế toàn diện, thì các cuộc tranh quyền của Hành pháp với Tư pháp đã khởi đầu. Nhưng Trump còn liên tục mở rộng quyền lực đến mức độ nào và liệu cơ quan Tư pháp có thể đưa Trump trở lại vị trí hiến định không, nếu không, thì nền dân chủ Mỹ sẽ lâm nguy, đó là vấn đề.
Khi Bạch Ốc công bố công thức tính thuế lên các quốc gia với các thang thuế khác nhau, người ta nhận ra đó chỉ là một một phép tính toán học căn bản, chẳng liên quan đến kinh tế học hay mậu dịch lẫn các dữ liệu thực tế nào cả. Chúng chỉ là những số liệu vô nghĩa và phi lý. Việt Nam không đánh thuế hàng Mỹ đến 90% và đảo hoang của những chú chim cánh cụt có liên quan gì đến giao thương. Điều này thể hiện một đối sách vội vã, tự phụ và đầy cảm tính, cá nhân của Donald Trump nhằm tạo áp lực lên thế giới, buộc các nước tái cân bằng mậu dịch với Mỹ hơn là dựa trên nền tảng giao thương truyền thống qua các hiệp ước và định chế quốc tế. Hoặc nhỏ nhặt hơn, để trả thù những gì đã xảy ra trong quá khứ: Trump ra lệnh áp thuế cả những vật phẩm tâm linh từ Vatican đưa sang Mỹ như một thái độ với những gì đức Giáo Hoàng Francis từng bày tỏ.
Tổng thống Donald Trump vào hôm qua đã đột ngột đảo ngược kế hoạch áp thuế quan toàn diện bằng cách tạm dừng trong 90 ngày. Chỉ một ngày trước đó đại diện thương mại của Trump đã đến Quốc Hội ca ngợi những lợi ích của thuế quan. Tuần trước chính Trump đã khẳng định "CHÍNH SÁCH CỦA TÔI SẼ KHÔNG BAO GIỜ THAY ĐỔI". Nhưng Trump đã chịu nhiều áp lực từ những nhân vật Cộng Hòa khác, các giám đốc điều hành doanh nghiệp và thậm chí cả những người bạn thân thiết, đã phải tạm ngừng kế hoạch thuế quan, chỉ duy trì thuế căn bản (baseline tariff) 10% đối với tất cả những đối tác thương mại.
Trật tự thế giới là một vấn đề về mức độ: nó thay đổi theo thời gian, tùy thuộc vào các yếu tố công nghệ, chính trị, xã hội và ý thức hệ mà nó có thể ảnh hưởng đến sự phân phối quyền lực trong toàn cầu và ảnh hưởng đến các chuẩn mực. Nó có thể bị thay đổi một cách triệt để bởi các xu hướng lịch sử rộng lớn hơn và những sai lầm của một cường quốc. Sau khi Bức tường Berlin sụp đổ vào năm 1989, và gần một năm trước khi Liên Xô sụp đổ vào cuối năm 1991, Tổng thống Mỹ George H.W. Bush đã tuyên bố về một "trật tự thế giới mới". Hiện nay, chỉ hai tháng sau nhiệm kỳ tổng thống thứ hai của Donald Trump, Kaja Kallas, nhà ngoại giao hàng đầu của Liên minh châu Âu, đã tuyên bố rằng "trật tự quốc tế đang trải qua những thay đổi ở mức độ chưa từng thấy kể từ năm 1945". Nhưng "trật tự thế giới" là gì và nó được duy trì hoặc phá vỡ như thế nào?
Hãy bắt đầu niềm tin này với câu nói của John Kelly, tướng thủy quân lục chiến hồi hưu, cựu Bộ trưởng Nội an, cựu chánh văn phòng của Donald Trump (2018): “Người phát điên vì quyền lực là mối đe dọa chết người đối với nền dân chủ.” Ông phát biểu câu này tại một hội nghị chuyên đề về nền Dân chủ ở Mount Vernon vào tháng 11/2024, ngay tại ngôi nhà của George Washington, vị tổng thống đầu tiên, người mở ra con đường cho nền dân chủ và tự do của Hoa Kỳ. Không đùa đâu! Tướng Kelly muốn nói, những người phát điên vì quyền lực ấy có thể giữ các chức danh khác nhau, thậm chí là Tổng Thống, nhưng trong thâm tâm họ là bạo chúa, và tất cả các bạo chúa đều có cùng một đặc điểm: Họ không bao giờ tự nguyện nhượng quyền lực.
Gần đây, Tổng thống Mỹ Donald Trump công bố áp dụng chính sách áp thuế 25% đối với ô tô nhập khẩu vào Mỹ, trước đó Trump cũng đã áp đặt biện pháp trừng phạt chung đối với Liên Âu, Canada, Mexico và Trung Quốc, nhưng lại tạm hoãn trong 30 ngày để cho Canada và Mexico thương thuyết. Các biện pháp bất nhất này gây nhiều hoang mang cho chính giới và doanh nghiệp các nước đối tác.
Trong buổi phỏng vấn ngày 31 tháng 10 năm 2024 với bình luận gia cánh hữu Tucker Carlson, Tổng thống Donald Trump khẳng định rằng dưới thời Joe Biden, Hoa Kỳ đã mắc sai lầm nghiêm trọng khi vô tình đẩy Nga và TQ lại gần nhau. Theo Trump, một trong những ưu tiên hàng đầu khi ông quay trở lại Tòa Bạch Ốc sẽ là phá vỡ liên minh này. Khi đó, Trump tự tin tuyên bố: “Tôi sẽ phải tách họ ra, và tôi tin mình sẽ làm được.” Và ngay từ những ngày đầu của nhiệm kỳ thứ hai, Trump đã tỏ rõ mong muốn đàm phán với Nga nhằm nhanh chóng kết thúc chiến tranh ở Ukraine. Một cách giải thích cho chính sách này là: Trump đang làm đúng những gì từng nói trong cuộc trò chuyện với Carlson. Việc rút Hoa Kỳ khỏi cuộc xung đột tại Âu Châu và khôi phục quan hệ với Moscow, kể cả khi phải bỏ rơi Ukraine, là một phần trong chiến lược tập trung đối phó với TQ.
Cuộc đua vào Tòa án Tối cao Wisconsin rất quan trọng vì nó ảnh hưởng lớn đến các vấn đề pháp lý và chính sách trong tiểu bang. Wisconsin là một bang chiến địa quan trọng trong các cuộc bầu cử tổng thống Mỹ. Tòa tối cao tiểu bang có thể đóng vai trò lớn trong các tranh chấp liên quan đến luật bầu cử, quyền tiếp cận lá phiếu và các thách thức đối với kết quả bầu cử. Cuối cùng, sự lo lắng có cơ sở của người dân cuối cùng đã được hóa giải. Số tiền “đầu tư” $20 triệu của Musk đã không thắng được sự lựa chọn của Wisconsin.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.