Hôm nay,  

Tặng Dữ Trong Khốn Khổ

26/03/200900:00:00(Xem: 6218)

Tặng dữ trong Khốn khổ

Nguyễn Xuân Nghĩa & RFA
...tẩu tán tư bản hay ‘capital flight’, là tiền được rút chạy khỏi Việt Nam...

Biến động kinh tế toàn cầu khiến một hiện tượng kinh tế đang được chú ý là số lượng tiền do thân nhân từ nước ngoài gửi về cho gia đình tại các nước nghèo cũng giảm sút đáng kể. Diễn đàn Kinh tế hàng tuần sẽ tìm hiểu về hiện tượng đó qua cuộc trao đổi do Việt Long đài RFA thực hiện sau đây cùng nhà tư vấn kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa.
Hỏi 1: Xin kính chào ông Nguyễn Xuân Nghĩa. Các nước đang phát triển trên thế giới nói chung đều cần tới các các khoản thu nhập ngoại tệ quan trọng là xuất khẩu và đầu tư từ nước ngoài. Một nguồn ngoại tệ đáng kể là lượng tiền của thân nhân từ ngoại quốc gửi về giúp đỡ gia đình ở nhà. Khi kinh tế toàn cầu bị chấn động nặng, ngần ấy nguồn tiền đều cạn dần, kể cả tiền giúp đỡ của thân nhân từ nước ngoài. Chương trình chuyên đề kỳ này sẽ tìm hiểu riêng về hiện tượng ấy như ông có nói tới trong một kỳ trước. Đầu tiên, xin ông nói về bối cảnh của vấn đề.
- Câu trả lời của tôi trước hết là về lẽ chính danh, hay tên gọi cho đúng của loại chuyển ngân này. Nói chung, Việt Nam ưa gọi lượng tiền này là "kiều hối", và tôi trộm nghĩ là thiếu chuẩn xác!
- "Kiều hối" có thể là tiền của công dân Việt Nam, hay "Việt kiều", gửi từ nước ngoài về nhà và trường hợp ấy áp dụng cho thành phần lao động từ Việt Nam đi làm ở bên ngoài gửi về cho thân nhân. Thành phần ấy chủ yếu làm việc tại các nước Đông Á hay Trung Đông, một số nhỏ tại Đông Âu. Sau khi bị cơ quan môi giới về lao động trưng thu từ trước thì lượng tiền của họ thật ra cũng ít nếu so với số tiền của người Việt sinh sống ở hải ngoại từ đã lâu, đa số là dân tỵ nạn đã thụ đắc quốc tịch của nước khác và hết là công dân Việt Nam. Thành phần này tập trung tại Hoa Kỳ, Canada, Úc và các nước Âu Châu. Chưa chắc họ đã muốn bị gọi là "Việt kiều", hoặc bị ràng buộc vào luật pháp Nhà nước Việt Nam áp dụng cho người Việt trong nước. Cho nên chữ "kiều hối" có thể thiếu chính xác về xuất xứ kinh tế và nhập nhằng về nội dung chính trị.
Hỏi: Ông nêu ra một vấn đề khá độc đáo! Nhưng xin hỏi ông là mình có thể dùng chữ nào khác cho thích hợp với lẽ chính danh như ông nói"
- Ta có thể gọi như dân Nhật là "tống kim", với chữ "tống" có ý là làm quà như "phụng tống". Ta cũng có thể gọi là "thuận kim" hay "thuận hối" như người Hoa, với chữ "thuận" có nghĩa là làm việc gì đó hợp với lẽ phải hay đạo lý con người. Chữ "tặng dữ" đã được dùng trong kinh tế học cũng là một từ mà ta dùng được vì nhấn mạnh tới động lực là tự nguyện cho người khác.
- Dù sao, những từ ấy vẫn đúng về kinh tế mà không gây vấn đề chính trị. Đây không là chuyện nhỏ mà liên hệ đến kinh tế khi lao động nước ngoài đang giảm và lượng "kiều hối" bị hao hụt nặng, khiến nhiều người trong nước phải mong đợi nhiều ở số tiền do đồng bào hay thân nhân sinh sống ở hải ngoại từ đã lâu vẫn thường gửi về giúp đỡ.
Hỏi: Không ngờ là ông lại khó tính như vậy trong cách gọi tên của từng nguồn tiền! Nhưng phải chăng điều ấy cũng có lý do về kinh tế lẫn chính trị"
- Và về kinh tế chính trị học nữa, thưa ông!
- Tôi xin giải thích cho rõ ràng hơn: hoàn cảnh của Việt Nam rất khác với đại đa số quốc gia đang phát triển khác trong ý nghĩa là tại các xứ khác thì lượng "kiều hối" như ta nói chiếm tỷ lệ lớn trong số ngoại tệ gửi về nhà và suy thoái kinh tế toàn cầu đang gây vấn đề cho họ.
- Tại Việt Nam, vì hoàn cảnh lịch sử bi đát, đa số hơn ba triệu người đang sống tại hải ngoại là dân tỵ nạn đã lập nghiệp và sống hẳn ở nước ngoài mà vẫn đều đặn gửi tiền về cho thân nhân với số lượng cao, có thể lên tới 10% tổng số thu nhập của hơn 86 triệu người ở nhà. Ảnh hưởng kinh tế của nguồn tiền ấy cũng khác vì vậy mà ta cần phân biệt!
Hỏi: Bây giờ, xin hãy nói về hiện tượng chung trước khi trở lại chuyện riêng của Việt Nam. Có phải là suy thoái kinh tế đang đánh sụt lượng tiền tặng dữ đó không" 
- Trong giai đoạn kinh tế phát đạt, các nước đang phát triển đã nhận được khoản tặng dữ đáng kể của thân nhân. Từ năm 1996, lượng tiền này còn cao hơn viện trợ chính thức mà một số quốc gia nhận được. Từ năm 2002 đến 2007, tiền tặng dữ của các nước Âu Châu hay Trung Á tăng 175% và trên toàn thế giới thì lên tới gần 230 tỷ vào năm 2006, 265 tỷ vào năm 2007. Mấy con số trên của Ngân hàng Thế giới đều là dự đoán nên thấp hơn thực tế như ta sẽ xét sau.
- Tình hình sa sút kể từ quý ba năm ngoái và ngày càng sa sút hơn trên toàn thế giới. Tăng mạnh nhất rồi bị hụt nặng nhất là các xứ Phi Châu miền Nam Sahara, kế tiếp là Âu Châu và Trung Á. Nói chung thì nước nào cũng vậy nhưng càng lệ thuộc nhiều vào nguồn tặng dữ ấy - như xứ khác lệ thuộc vào xuất cảng hay đầu tư nước ngoài - thì xã hội càng gặp khó khăn. Khi mà kinh tế suy trầm, trước hết ở các nước giàu nhất và xuất xứ lớn nhất của nguồn tặng dữ từ thân nhân, thì đầu tư nước ngoài suy sụp đầu tiên vì tư bản rút tiền về trước, sau đó mới là sút giảm xuất khẩu và sau cùng, kể từ năm nay là số tặng dữ. Cho nên ta phải chờ đợi là nguồn tặng dữ này sẽ còn giảm mạnh trong những tháng tới.
Hỏi: Nếu có thể trình bày một bức tranh toàn cảnh thì tình hình sẽ ra sao cho các nước này"


- Có nhiều quốc gia mà tặng dữ của thân nhân lên tới hơn một phần ba của sản lượng GDP nên rất dễ bị khủng hoảng như trường hợp của Moldovia tại Âu Châu, Tajikistan hay Kyrgyzstan tại Trung Á hoặc cả xứ Lào tại Đông dương. Các nước kế tiếp là Afghanistan, Guyana, Albania, Bosnia-Herzegovina, Armenia, Georgia hay Honduras và El Salvador.
- Một số quốc gia có tỷ lệ tặng dữ thấp hơn so với sản lượng nội địa cũng vẫn bị khó khăn. Theo thống kê năm 2007 thì nhận nhiều tiền nhất là Ấn Độ được 30 tỷ, Trung Quốc 27 tỷ, Mexico chừng 24 tỷ, sau đó là Ba Lan với 11 tỷ, Nigera, Egypt hay Romania chừng 9-10 tỷ. So với sản lượng thì khoản tiền ấy chỉ bằng cỡ 5-7% tổng sản lượng, nhưng nếu kinh tế sa sút thêm thì đấy cũng là vấn đề.
- Bây giờ, nói về hậu quả thì ta nên nhớ rằng tặng dữ không hẳn là tiền đầu tư mà là tiền tươi cho ngân sách gia đình, nên nguồn viện trợ đó mà giảm là nhiều gia đình sẽ đói, nhất là tại các nước chưa có chế độ an sinh phúc lợi cho các hộ nghèo. Một hậu quả khác là lao động ở nước ngoài nay hết việc bị trả về, nên lực lượng nhân công hồi hương càng gây sức ép thất nghiệp ở nhà, vốn có thể tăng gấp năm lần năm ngoái. Nếu họ cố sống cầm hơi để chờ kinh tế phục hồi ở quốc gia tiếp nhận thì cũng có thể gây nên hiềm khích hay kỳ thị, và người ta nên lo cho số phận của họ.
Hỏi: Bây giờ, ta nói về Việt Nam. Nguồn tặng dữ ấy tất nhiên sút giảm vì lao động ở nước ngoài mất việc và vì các nền kinh tế Mỹ, Âu hay Úc đều khó khăn nên đánh sụt lợi tức của cộng đồng người Việt hải ngoại. Vì thế làm giảm số tiền gửi về nhà, trong hai tháng đầu năm đã giảm từ 7 đến 16% như một số ngân hàng Việt Nam vừa mới báo cáo. Ông nghĩ sao về hiện tượng này"
- Về trường hợp Việt Nam, tôi e rằng mình cần phân biệt vài chuyện đặc thù so với xứ khác.
- Thứ nhất, đa số lượng tiền tặng dữ này không gửi qua hệ thống ngân hàng mà gửi qua các hãng chuyển tiền quốc tế, tư nhân và những đường dây riêng nên thường cao hơn con số chính thức. Sự sút giảm cũng thế. Thành phần lao động ở nước ngoài có thể vẫn gửi qua hệ thống ngân hàng và bị kiểm soát kỹ từ gốc, chứ các thành phần kia thì không mấy tin vào ngân hàng trong nước nên tìm ngả nhanh gọn hay đáng tin hơn, chưa kể là hoa hồng còn rẻ hơn.
- Thứ hai, số chính thức năm ngoái là tám tỷ Mỹ kim có thể còn ít so với số tiền ở nhà thực sự nhận được, và đã bằng 10% tổng sản lượng của Việt Nam. Trong số này, có lẽ đến ba phần tư là xuất phát từ Hoa Kỳ và hơn nửa là từ hai miền Nam và Bắc California, là những nơi kinh tế đang bị sa sút nặng nhất, có tỷ lệ thuế khoá và thất nghiệp cao nhất.
- Về mặt xã hội, ta cần phân biệt là tiền của giới lao động ở nước ngoài gửi về có thể ít hơn mà phân tán rộng hơn tại các tỉnh miền Bắc Việt Nam, trong khi tặng dữ của người Việt hải ngoại lại nhiều hơn gấp bội, thường tập trung vào các tỉnh miền Nam và các thành phố lớn. Hiện tượng ấy có góp phần đào sâu dị biệt về lợi tức của từng vùng.
Hỏi: Liệu chúng ta có thể có được những dự báo cập nhật về lượng tiền tặng dữ không"
- Mình khó biết được con số của năm 2009, nhưng căn cứ trên tình hình kinh tế sa sút của các quốc gia xuất xứ như Mỹ, Âu hay Úc hay Canada và hoàn cảnh khó khăn của người Việt tại đó thì lượng tiền tặng dữ do thân nhân gửi về có thể giảm ít ra phân nửa. Nếu được năm tỷ đô la là mừng vì kinh tế của các xứ này, nhất là tại Mỹ, phải hồi phục trước thì năm sáu tháng sau cộng đồng người Việt tại đấy mới dễ thở, kiếm ra việc làm để rồi tiếp tục gửi tiền về cho thân nhân. Vì vậy, từ nay đến cuối năm, tiền tặng dữ sẽ còn giảm, mà đấy chưa là vấn đề.
Hỏi: Ông nói rằng đấy chưa là vấn đề vì còn thấy chuyện gì nữa về luồng tiền này" Phải chăng vì chính sách ngoại hối định giá đồng bạc quá thấp để kích thích xuất khẩu"
- Tôi thiển nghĩ rằng tỷ giá chỉ là vấn đề nhỏ vì đồng Mỹ kim vẫn tiếp tục lên giá. Vấn đề nó nằm ở chỗ khác, là luồng tư bản biết chảy ngược xuôi - ra và vào Việt Nam.
- Một thí dụ là khi gửi tiền về nhà, ở ngoài phải trả hoa hồng chừng 1%, ngược lại từ Việt Nam gửi ra thì mất 5% trị giá số tiền gửi. Điều ấy cho thấy là vẫn có người gửi tiền ra ngoài. Họ là ai" Tất nhiên không phải là thân nhân vất vả của những người có từ tâm ở hải ngoại gửi tiền về.
- Thứ hai, rất nhiều trường hợp mà tiền gửi về nhà chỉ được bút ghi trong sổ kế toán và vẫn nằm ở ngoài vì cơ sở trung gian không bỏ tiền của ta vào cặp đem về đưa người thừa hưởng ở nhà. Trong khi ấy, đối tác ở bên nhà của cơ sở trung gian lại nhận tiền của ai khác để trao lại cho người thừa hưởng. Vì vậy, nghiệp vụ chuyển tiền về nhà gồm có hai chiều, tiền gửi về nhà cũng là cơ hội cho người ở nhà chuyển tiền ra ngoài!
- Ở nhà, người nhận và người gửi tiền ra ngoài là hai thành phần khác nhau. Con số tám tỷ gửi về có thể là tặng dữ cho nhiều gia đình đỡ khổ, nhưng đối giá của nó lại là tiền mà kinh tế học gọi là "tẩu tán tư bản" hay "capital flight", là tiền được rút chạy khỏi Việt Nam. Bây giờ, khi kinh tế bên ngoài sa sút, một số gia đình ở nhà có thể bị khó khăn chứ người có chức có quyền, tức là có tiền, thì vẫn không thiếu cách đem tiền ra ngoài, có khi họ gọi đó là đầu tư!
Xin cám ơn ông Nguyễn Xuân Nghĩa.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Từ ngày nước Mỹ lập quốc, chưa bao giờ nụ cười của một ứng cử viên tổng thống lại bị đối thủ mang ra mổ xẻ, tấn công với những lời lẽ không phù hợp với tư cách một người tranh cử vị trí lãnh đạo quốc gia. Nhưng ngược lại, cũng chưa bao giờ nụ cười của một ứng cử viên tổng thống lại trở thành niềm hy vọng cho một đất nước đang đối đầu với mối nguy hiểm “duy nhất suốt 248 năm” (theo lời cựu Phó Tổng Thống Dick Chenny.) Đó là nụ cười của Kamala Harris – Một nụ cười đang ngày càng thay hình đổi dạng cuộc tranh cử tổng thống kinh điển của nước Mỹ.
Cựu Tổng Thống Donald Trump đã trình bầy kế hoạch kinh tế của ông tại Economic Club of New York trước đám đông các kinh tế gia, lãnh đạo doanh nghiệp và nhà báo vào 5-9-2024 vừa qua. Buổi nói chuyện này nằm trong chiến dịch tranh cử. Kế hoạch kinh tế trong nhiệm kỳ 2 nếu ông thắng cử bao gồm nhiều chính sách mà ông đã thi hành trong bốn năm đầu cầm quyền. Ông tuyên bố sẽ loại bỏ nhiều chương trình của chính quyền Biden. Ứng cử viên tổng thống của Cộng Hòa quảng cáo chương trình của ông với thuế nội địa thấp, thuế nhập cảng cao chưa từng thấy, giảm bớt luật lệ, và kinh tế phát triển mạnh. Nhưng nhiều chuyên viên đã nghi ngờ giá trị của chương trình kinh tế này. Nhiều người đã lên tiếng chỉ trích đề xuất kinh tế của Trump như chúng ta sẽ thấy trong những phần dưới đây của bài báo này.
Cuộc bầu cử tổng thống Mỹ vào tháng 11 sắp tới không chỉ định hình tương lai chính trị của quốc gia trong vài năm tới mà còn đặt ra những câu hỏi căn bản về bản sắc và tương lai của chính nước Mỹ. Trong khi kết quả bầu cử sẽ quyết định nhiều vấn đề quan trọng, những xung đột sâu sắc về bản chất của nước Mỹ đã được phản ảnh rõ nét qua đường lối, chính sách nêu ra tại hai đại hội Đảng Cộng Hòa và Dân Chủ vừa qua.
Tôi đã xem qua cả trăm bài viết với với nội dung và ngôn từ (“đầu đường xó chợ”) tương tự nhưng chưa bao giờ bận tâm hay phiền hà gì sất. Phần lớn, nếu không muốn nói là tất cả, các bạn DLV đều không quen cầm bút nên viết lách hơi bị khó khăn, và vô cùng khó đọc. Họ hoàn toàn không có khái niệm chi về câu cú và văn phạm cả nên hành văn lủng củng, vụng về, dài dòng, lan man trích dẫn đủ thứ nghị quyết (vớ vẩn) để chứng minh là đường lối chính sách của Đảng và Nhà Nước luôn luôn đúng đắn. Họ cũng sẵn sàng thóa mạ bất cứ ai không “nhận thức được sự đúng đắn” này, chứ không thể lập luận hay phản bác bất cứ một cáo buộc nào ráo trọi.
Ngày 20/7/1969, hai phi hành gia Neil Armstrong và Edwin Aldrin đi vào lịch sử như là hai người đầu tiên đặt chân lên Mặt Trăng thế nhưng sự kiện này bị một số nhà “lý thuyết âm mưu” lên tiếng phủ nhận. Căn cứ vào những điểm “khả nghi” trong tấm hình chụp Armstrong đứng cạnh lá cờ cắm trên Mặt Trăng, họ quả quyết rằng tất cả chỉ là chuyện dàn dựng và bức hình này chỉ được chụp tại một sa mạc ở Nevada. Nhưng bằng chứng của vụ đổ bộ ấy đâu chỉ duy nhất một tấm hình? Tàu Appollo 11 phóng từ mũi Kennedy trước con mắt hàng chục ngàn người và hàng trăm triệu người qua ống kính truyền hình. Hàng trăm ngàn thước phim quay được và chụp được khi tàu Appollo vờn trên quỹ đạo quanh mặt trăng, cảnh tàu con rời tàu mẹ để đổ bộ, cảnh các phi hành gia đi bộ và cả những túi đất đá mang về từ Mặt Trăng v.v. Chúng ta thấy gì ở đây? Những bằng chứng xác thực thì nặng như núi nhưng, khi đã cố tình không tin, đã cố vạch ra những âm mưu thì chỉ cần mấy điểm khả nghi nhẹ tựa lông hồng.
Một bài bình luận của báo Chính phủ CSVN hôm 2/9/2024 viết: “Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, đến nay chúng ta ngày càng có cơ sở vững chắc để khẳng định sự thật chúng ta đã trở thành nước tự do độc lập, người dân ngày càng ấm no hạnh phúc…” Những lời tự khoe nhân dịp kỷ niệm 79 năm (1945-2024) được gọi là “Tuyên ngôn độc lập” của ông Hồ Chí Minh chỉ nói được một phần sự thật, đó là Việt Nam đã có độc lập. Nhưng “tự do” và “ấm no hạnh phúc” vẫn còn xa vời. Bằng chứng là mọi thứ ở Việt Nam đều do đảng kiểm soát và chỉ đạo nên chính sách “xin cho” là nhất quán trong mọi lĩnh vực...
Năm 2012 Tập Cận Bình được bầu làm Tổng Bí Thư Trung Ương Đảng; năm 2013 trở thành Chủ Tịch Nước; đến năm 2018 tư tưởng Tập Cận Bình được chính thức mang vào Hiến Pháp với tên gọi “Tư tưởng Tập Cận Bình về chủ nghĩa xã hội với đặc sắc Trung Quốc trong thời đại mới”. Tập Cận Bình đem lại nhiều thay đổi sâu sắc trong xã hội Trung Quốc, mối bang giao Mỹ-Trung và nền trật tự thế giới...
Xem ra thì người Mỹ, không ít, đang chán tự do và nước Mỹ đang mấp mé bên bờ vực của tấn thảm kịch mà nước Đức đã sa chân cách đây một thế kỷ khi, trong cuộc bầu cử năm 1933, trao hết quyền tự do cho Adolf Hitler, để mặc nhà dân túy có đầu óc phân chủng, độc tài và máu điên này tùy nghi định đoạt số phận dân tộc. Mà nếu tình thế nghiêm trọng của nước Đức đã thể hiện từ trước, trong cương lĩnh đảng phát xít cả khi chưa nắm được chính quyền thì, bây giờ, với nước Mỹ, đó là Project 2025.
Từ 20 năm qua (2004-2024), vấn đề hợp tác giữa người Việt Nam ở nước ngoài và đảng CSVN không ngừng được thảo luận, nhưng “đoàn kết dân tộc” vẫn là chuyện xa vời. Nguyên nhân còn ngăn cách cơ bản và quan trọng nhất vì đảng Cộng sản không muốn từ bỏ độc quyền cai trị, và tiếp tục áp đặt Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh “làm nền tảng xây dựng đất nước”...
Cái ông Andropov (“nào đó”) nghe tên cũng có vẻ quen quen nhưng nhất thời thì tôi không thể nhớ ra được là ai. Cả ủy ban nhân dân Rạch Gốc và nhà văn Nguyên Ngọc cũng vậy, cũng bù trất, không ai biết thằng chả ở đâu ra nữa. Tuy vậy, cả nước, ai cũng biết rằng trong cái thế giới “bốn phương vô sản đều là anh em” thì bất cứ đồng chí lãnh đạo (cấp cao) nào mà chuyển qua từ trần thì đều “thuộc diện quốc tang” ráo trọi – bất kể Tây/Tầu.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.