Hôm nay,  

Tặng Dữ Trong Khốn Khổ

26/03/200900:00:00(Xem: 6215)

Tặng dữ trong Khốn khổ

Nguyễn Xuân Nghĩa & RFA
...tẩu tán tư bản hay ‘capital flight’, là tiền được rút chạy khỏi Việt Nam...

Biến động kinh tế toàn cầu khiến một hiện tượng kinh tế đang được chú ý là số lượng tiền do thân nhân từ nước ngoài gửi về cho gia đình tại các nước nghèo cũng giảm sút đáng kể. Diễn đàn Kinh tế hàng tuần sẽ tìm hiểu về hiện tượng đó qua cuộc trao đổi do Việt Long đài RFA thực hiện sau đây cùng nhà tư vấn kinh tế Nguyễn Xuân Nghĩa.
Hỏi 1: Xin kính chào ông Nguyễn Xuân Nghĩa. Các nước đang phát triển trên thế giới nói chung đều cần tới các các khoản thu nhập ngoại tệ quan trọng là xuất khẩu và đầu tư từ nước ngoài. Một nguồn ngoại tệ đáng kể là lượng tiền của thân nhân từ ngoại quốc gửi về giúp đỡ gia đình ở nhà. Khi kinh tế toàn cầu bị chấn động nặng, ngần ấy nguồn tiền đều cạn dần, kể cả tiền giúp đỡ của thân nhân từ nước ngoài. Chương trình chuyên đề kỳ này sẽ tìm hiểu riêng về hiện tượng ấy như ông có nói tới trong một kỳ trước. Đầu tiên, xin ông nói về bối cảnh của vấn đề.
- Câu trả lời của tôi trước hết là về lẽ chính danh, hay tên gọi cho đúng của loại chuyển ngân này. Nói chung, Việt Nam ưa gọi lượng tiền này là "kiều hối", và tôi trộm nghĩ là thiếu chuẩn xác!
- "Kiều hối" có thể là tiền của công dân Việt Nam, hay "Việt kiều", gửi từ nước ngoài về nhà và trường hợp ấy áp dụng cho thành phần lao động từ Việt Nam đi làm ở bên ngoài gửi về cho thân nhân. Thành phần ấy chủ yếu làm việc tại các nước Đông Á hay Trung Đông, một số nhỏ tại Đông Âu. Sau khi bị cơ quan môi giới về lao động trưng thu từ trước thì lượng tiền của họ thật ra cũng ít nếu so với số tiền của người Việt sinh sống ở hải ngoại từ đã lâu, đa số là dân tỵ nạn đã thụ đắc quốc tịch của nước khác và hết là công dân Việt Nam. Thành phần này tập trung tại Hoa Kỳ, Canada, Úc và các nước Âu Châu. Chưa chắc họ đã muốn bị gọi là "Việt kiều", hoặc bị ràng buộc vào luật pháp Nhà nước Việt Nam áp dụng cho người Việt trong nước. Cho nên chữ "kiều hối" có thể thiếu chính xác về xuất xứ kinh tế và nhập nhằng về nội dung chính trị.
Hỏi: Ông nêu ra một vấn đề khá độc đáo! Nhưng xin hỏi ông là mình có thể dùng chữ nào khác cho thích hợp với lẽ chính danh như ông nói"
- Ta có thể gọi như dân Nhật là "tống kim", với chữ "tống" có ý là làm quà như "phụng tống". Ta cũng có thể gọi là "thuận kim" hay "thuận hối" như người Hoa, với chữ "thuận" có nghĩa là làm việc gì đó hợp với lẽ phải hay đạo lý con người. Chữ "tặng dữ" đã được dùng trong kinh tế học cũng là một từ mà ta dùng được vì nhấn mạnh tới động lực là tự nguyện cho người khác.
- Dù sao, những từ ấy vẫn đúng về kinh tế mà không gây vấn đề chính trị. Đây không là chuyện nhỏ mà liên hệ đến kinh tế khi lao động nước ngoài đang giảm và lượng "kiều hối" bị hao hụt nặng, khiến nhiều người trong nước phải mong đợi nhiều ở số tiền do đồng bào hay thân nhân sinh sống ở hải ngoại từ đã lâu vẫn thường gửi về giúp đỡ.
Hỏi: Không ngờ là ông lại khó tính như vậy trong cách gọi tên của từng nguồn tiền! Nhưng phải chăng điều ấy cũng có lý do về kinh tế lẫn chính trị"
- Và về kinh tế chính trị học nữa, thưa ông!
- Tôi xin giải thích cho rõ ràng hơn: hoàn cảnh của Việt Nam rất khác với đại đa số quốc gia đang phát triển khác trong ý nghĩa là tại các xứ khác thì lượng "kiều hối" như ta nói chiếm tỷ lệ lớn trong số ngoại tệ gửi về nhà và suy thoái kinh tế toàn cầu đang gây vấn đề cho họ.
- Tại Việt Nam, vì hoàn cảnh lịch sử bi đát, đa số hơn ba triệu người đang sống tại hải ngoại là dân tỵ nạn đã lập nghiệp và sống hẳn ở nước ngoài mà vẫn đều đặn gửi tiền về cho thân nhân với số lượng cao, có thể lên tới 10% tổng số thu nhập của hơn 86 triệu người ở nhà. Ảnh hưởng kinh tế của nguồn tiền ấy cũng khác vì vậy mà ta cần phân biệt!
Hỏi: Bây giờ, xin hãy nói về hiện tượng chung trước khi trở lại chuyện riêng của Việt Nam. Có phải là suy thoái kinh tế đang đánh sụt lượng tiền tặng dữ đó không" 
- Trong giai đoạn kinh tế phát đạt, các nước đang phát triển đã nhận được khoản tặng dữ đáng kể của thân nhân. Từ năm 1996, lượng tiền này còn cao hơn viện trợ chính thức mà một số quốc gia nhận được. Từ năm 2002 đến 2007, tiền tặng dữ của các nước Âu Châu hay Trung Á tăng 175% và trên toàn thế giới thì lên tới gần 230 tỷ vào năm 2006, 265 tỷ vào năm 2007. Mấy con số trên của Ngân hàng Thế giới đều là dự đoán nên thấp hơn thực tế như ta sẽ xét sau.
- Tình hình sa sút kể từ quý ba năm ngoái và ngày càng sa sút hơn trên toàn thế giới. Tăng mạnh nhất rồi bị hụt nặng nhất là các xứ Phi Châu miền Nam Sahara, kế tiếp là Âu Châu và Trung Á. Nói chung thì nước nào cũng vậy nhưng càng lệ thuộc nhiều vào nguồn tặng dữ ấy - như xứ khác lệ thuộc vào xuất cảng hay đầu tư nước ngoài - thì xã hội càng gặp khó khăn. Khi mà kinh tế suy trầm, trước hết ở các nước giàu nhất và xuất xứ lớn nhất của nguồn tặng dữ từ thân nhân, thì đầu tư nước ngoài suy sụp đầu tiên vì tư bản rút tiền về trước, sau đó mới là sút giảm xuất khẩu và sau cùng, kể từ năm nay là số tặng dữ. Cho nên ta phải chờ đợi là nguồn tặng dữ này sẽ còn giảm mạnh trong những tháng tới.
Hỏi: Nếu có thể trình bày một bức tranh toàn cảnh thì tình hình sẽ ra sao cho các nước này"


- Có nhiều quốc gia mà tặng dữ của thân nhân lên tới hơn một phần ba của sản lượng GDP nên rất dễ bị khủng hoảng như trường hợp của Moldovia tại Âu Châu, Tajikistan hay Kyrgyzstan tại Trung Á hoặc cả xứ Lào tại Đông dương. Các nước kế tiếp là Afghanistan, Guyana, Albania, Bosnia-Herzegovina, Armenia, Georgia hay Honduras và El Salvador.
- Một số quốc gia có tỷ lệ tặng dữ thấp hơn so với sản lượng nội địa cũng vẫn bị khó khăn. Theo thống kê năm 2007 thì nhận nhiều tiền nhất là Ấn Độ được 30 tỷ, Trung Quốc 27 tỷ, Mexico chừng 24 tỷ, sau đó là Ba Lan với 11 tỷ, Nigera, Egypt hay Romania chừng 9-10 tỷ. So với sản lượng thì khoản tiền ấy chỉ bằng cỡ 5-7% tổng sản lượng, nhưng nếu kinh tế sa sút thêm thì đấy cũng là vấn đề.
- Bây giờ, nói về hậu quả thì ta nên nhớ rằng tặng dữ không hẳn là tiền đầu tư mà là tiền tươi cho ngân sách gia đình, nên nguồn viện trợ đó mà giảm là nhiều gia đình sẽ đói, nhất là tại các nước chưa có chế độ an sinh phúc lợi cho các hộ nghèo. Một hậu quả khác là lao động ở nước ngoài nay hết việc bị trả về, nên lực lượng nhân công hồi hương càng gây sức ép thất nghiệp ở nhà, vốn có thể tăng gấp năm lần năm ngoái. Nếu họ cố sống cầm hơi để chờ kinh tế phục hồi ở quốc gia tiếp nhận thì cũng có thể gây nên hiềm khích hay kỳ thị, và người ta nên lo cho số phận của họ.
Hỏi: Bây giờ, ta nói về Việt Nam. Nguồn tặng dữ ấy tất nhiên sút giảm vì lao động ở nước ngoài mất việc và vì các nền kinh tế Mỹ, Âu hay Úc đều khó khăn nên đánh sụt lợi tức của cộng đồng người Việt hải ngoại. Vì thế làm giảm số tiền gửi về nhà, trong hai tháng đầu năm đã giảm từ 7 đến 16% như một số ngân hàng Việt Nam vừa mới báo cáo. Ông nghĩ sao về hiện tượng này"
- Về trường hợp Việt Nam, tôi e rằng mình cần phân biệt vài chuyện đặc thù so với xứ khác.
- Thứ nhất, đa số lượng tiền tặng dữ này không gửi qua hệ thống ngân hàng mà gửi qua các hãng chuyển tiền quốc tế, tư nhân và những đường dây riêng nên thường cao hơn con số chính thức. Sự sút giảm cũng thế. Thành phần lao động ở nước ngoài có thể vẫn gửi qua hệ thống ngân hàng và bị kiểm soát kỹ từ gốc, chứ các thành phần kia thì không mấy tin vào ngân hàng trong nước nên tìm ngả nhanh gọn hay đáng tin hơn, chưa kể là hoa hồng còn rẻ hơn.
- Thứ hai, số chính thức năm ngoái là tám tỷ Mỹ kim có thể còn ít so với số tiền ở nhà thực sự nhận được, và đã bằng 10% tổng sản lượng của Việt Nam. Trong số này, có lẽ đến ba phần tư là xuất phát từ Hoa Kỳ và hơn nửa là từ hai miền Nam và Bắc California, là những nơi kinh tế đang bị sa sút nặng nhất, có tỷ lệ thuế khoá và thất nghiệp cao nhất.
- Về mặt xã hội, ta cần phân biệt là tiền của giới lao động ở nước ngoài gửi về có thể ít hơn mà phân tán rộng hơn tại các tỉnh miền Bắc Việt Nam, trong khi tặng dữ của người Việt hải ngoại lại nhiều hơn gấp bội, thường tập trung vào các tỉnh miền Nam và các thành phố lớn. Hiện tượng ấy có góp phần đào sâu dị biệt về lợi tức của từng vùng.
Hỏi: Liệu chúng ta có thể có được những dự báo cập nhật về lượng tiền tặng dữ không"
- Mình khó biết được con số của năm 2009, nhưng căn cứ trên tình hình kinh tế sa sút của các quốc gia xuất xứ như Mỹ, Âu hay Úc hay Canada và hoàn cảnh khó khăn của người Việt tại đó thì lượng tiền tặng dữ do thân nhân gửi về có thể giảm ít ra phân nửa. Nếu được năm tỷ đô la là mừng vì kinh tế của các xứ này, nhất là tại Mỹ, phải hồi phục trước thì năm sáu tháng sau cộng đồng người Việt tại đấy mới dễ thở, kiếm ra việc làm để rồi tiếp tục gửi tiền về cho thân nhân. Vì vậy, từ nay đến cuối năm, tiền tặng dữ sẽ còn giảm, mà đấy chưa là vấn đề.
Hỏi: Ông nói rằng đấy chưa là vấn đề vì còn thấy chuyện gì nữa về luồng tiền này" Phải chăng vì chính sách ngoại hối định giá đồng bạc quá thấp để kích thích xuất khẩu"
- Tôi thiển nghĩ rằng tỷ giá chỉ là vấn đề nhỏ vì đồng Mỹ kim vẫn tiếp tục lên giá. Vấn đề nó nằm ở chỗ khác, là luồng tư bản biết chảy ngược xuôi - ra và vào Việt Nam.
- Một thí dụ là khi gửi tiền về nhà, ở ngoài phải trả hoa hồng chừng 1%, ngược lại từ Việt Nam gửi ra thì mất 5% trị giá số tiền gửi. Điều ấy cho thấy là vẫn có người gửi tiền ra ngoài. Họ là ai" Tất nhiên không phải là thân nhân vất vả của những người có từ tâm ở hải ngoại gửi tiền về.
- Thứ hai, rất nhiều trường hợp mà tiền gửi về nhà chỉ được bút ghi trong sổ kế toán và vẫn nằm ở ngoài vì cơ sở trung gian không bỏ tiền của ta vào cặp đem về đưa người thừa hưởng ở nhà. Trong khi ấy, đối tác ở bên nhà của cơ sở trung gian lại nhận tiền của ai khác để trao lại cho người thừa hưởng. Vì vậy, nghiệp vụ chuyển tiền về nhà gồm có hai chiều, tiền gửi về nhà cũng là cơ hội cho người ở nhà chuyển tiền ra ngoài!
- Ở nhà, người nhận và người gửi tiền ra ngoài là hai thành phần khác nhau. Con số tám tỷ gửi về có thể là tặng dữ cho nhiều gia đình đỡ khổ, nhưng đối giá của nó lại là tiền mà kinh tế học gọi là "tẩu tán tư bản" hay "capital flight", là tiền được rút chạy khỏi Việt Nam. Bây giờ, khi kinh tế bên ngoài sa sút, một số gia đình ở nhà có thể bị khó khăn chứ người có chức có quyền, tức là có tiền, thì vẫn không thiếu cách đem tiền ra ngoài, có khi họ gọi đó là đầu tư!
Xin cám ơn ông Nguyễn Xuân Nghĩa.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Bi hài kịch “ngoại giao cây tre”, với hoạt cảnh mới nhất là “cưỡng bức đặc xá”, đã giúp chúng ta nhận ra rằng, dẫu khác nhau nước lửa, “phóng sinh” và “hiến tế” vẫn có thể hội tụ ở ý nghĩa “triều cống” khi phải chiều lòng hai cường quốc ở hai đầu mút của hai hệ tư tưởng trái ngược nhau. Để đẹp lòng bên này thì phải nhẫn tâm “hiến tế”, mà để làm hài lòng bên kia thì phải diễn tuồng “phóng sinh” để có một dáng dấp khai phóng, cởi mở. “Chiến lược ngoại giao” này, phải chăng, là một trò chơi “ăn bù thua” mà, diễn đạt bằng ngôn ngữ toán học của Game Theory, là có tổng bằng không?
Trận Điện Biên Phủ kết thúc vào hôm 7 tháng 5 năm 1954. Bẩy mươi năm đã qua nhưng dư âm chiến thắng, nghe chừng, vẫn còn âm vang khắp chốn. Tại một góc phố, ở Hà Nội, có bảng tên đường Điện Biên Phủ – cùng với đôi dòng chú thích đính kèm – ghi rõ nét tự hào và hãnh diện: “Tên địa danh thuộc tỉnh Lai Châu, nơi diễn ra trận đánh quyết liệt của quân và dân ta tiêu diệt tập đoàn cứ điểm thực dân Pháp kéo dài 55 ngày đêm”.
JD Vance đã chứng tỏ một “đẳng cấp” khác, rất “Yale Law School” so với thương gia bán kinh thánh, giày vàng, đồng hồ vàng, Donald Trump. Rõ ràng, về phong cách, JD Vance đã tỏ ra lịch sự, tự tin – điều mà khi khởi đầu, Thống đốc Walz chưa làm được. Vance đã đạt đến “đỉnh” của mục tiêu ông ta muốn: lý trí, ôn hoà, tỉnh táo hơn Donald Trump. “Đẳng cấp” này đã làm cho Thống Đốc Tim Walz, người từng thẳng thắn tự nhận “không giỏi tranh luận” phải vài lần phải trợn mắt, bối rối trong 90 phút. Cho dù hầu như trong tất cả câu hỏi, ông đã làm rất tốt trong việc phản biện lại những lời nói dối của JD Vance, đặc biệt là câu chất vất hạ gục đối thủ ở phút cuối: “Trump đã thua trong cuộc bầu cử 2020 đúng không?” JD Vance đáp lại câu hỏi này của Tim Walz bằng hàng loạt câu trả lời né tránh và phủ nhận sự thật. Và dĩ nhiên, rất “slick.” “Trump đã chuyển giao quyền lực rất ôn hoà.” Cả thế giới có thể luận bàn về sự thật trong câu trả lời này.
Phải nhìn nhận rằng chuyến đi đầu tiên của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm đến Mỹ đã được giới chức ngoại giao Việt Nam thu xếp để ông gặp được nhiều lãnh đạo, xem như xã giao ra mắt để hợp tác, hỗ trợ Việt Nam trong nhiều lãnh vực trong tương lai. Bài diễn văn của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm trước diễn đàn Liên Hiệp Quốc chỉ lặp lại các chính sách đối ngoại của Hà Nội, nên không được truyền thông quốc tế chú ý nhiều như các diễn văn của Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelensky và Thủ tướng Israel Benjamin Netanyahu, là đại diện cho những quốc gia trực tiếp liên can đến các xung đột ở Trung Đông, ở Ukraine mà có nguy cơ lan rộng ra thế giới. Ông Lâm mới lên làm chủ tịch nước kiêm tổng bí thư Đảng Cộng sản được vài tháng, sau khi Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng qua đời, nên ông muốn dịp đến Liên Hiệp Quốc là dịp để thể hiện vai trò lãnh đạo của mình và nhấn mạnh đến chính sách ngoại giao du dây của Hà Nội.
Sự bất mãn lan rộng với các hệ thống thuộc chủ nghĩa tư bản hiện tại đã khiến nhiều quốc gia, giàu và nghèo, tìm kiếm các mô hình kinh tế mới. Những người bảo vệ nguyên trạng tiếp tục coi Hoa Kỳ là một ngôi sao sáng, nền kinh tế của nước này vượt xa châu Âu và Nhật Bản, các thị trường tài chính của nước này vẫn chiếm ưu thế hơn bao giờ hết. Tuy nhiên, công dân của nước này cũng bi quan như bất kỳ công dân nào ở phương Tây.
Sau 38 năm quyết định “đổi mới hay là chết” (1986-2924) CSVN vẫn còn là quốc gia do một đảng độc quyền lãnh đạo; không có bầu cử tự do; không cho lập đảng đối lập và không có báo chí tư nhân. Vì vậy, những khẩu hiệu “nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân”, hay “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” được Đại hội lần thứ X khẳng định là những khoe khoang nhàm chán...
Việc Donald Trump được gần phân nửa người Mỹ chấp nhận và ủng hộ trong những năm gần đây đã khiến nhiều người trí thức trong xã hội Hoa Kỳ đặt câu hỏi về sự tồn tại của “human decency”, hay dịch nôm na là “sự đàng hoàng, sự tử tế, đạo đức nhân tính của con người”. Liệu xã hội ngày nay đã hạ thấp chuẩn mực “đàng hoàng”, hay có thể nào sự đàng hoàng, tử tế giờ đây không còn là một nhân tính cần thiết trong giá trị nhân bản? Dĩ nhiên trong mỗi xã hội, mỗi người có mỗi “thước đo” riêng về mức độ của “đàng hoàng”, nhưng từ ngữ tự nó phải phần nào nói lên một chuẩn mực nhất định. Theo một số tự điển tiếng Việt, chúng ta có thể đồng ý rằng: 1. Đàng hoàng là một tính từ tiếng Việt mô tả cuộc sống đầy đủ, đáp ứng được các nhu cầu chung của xã hội. Ví dụ: cuộc sống đàng hoàng, công việc đàng hoàng, nhà cửa đàng hoàng. 2. Đàng hoàng còn được dùng để chỉ những biểu hiện về tính cách mẫu mực, hay tư cách con người tử tế đáng được coi trọng.
Thư tịch cổ ghi rằng… Lịch sử trên thế giới thật sự rất hiếm người tài vừa là vua đứng đầu thiên hạ vừa là một hiền triết. Nếu văn minh La Mã có Marcus Aurelus, hoàng đế triết gia, vừa minh trị dân, độ lượng với mọi người và để lại tác phẩm triết học nổi tiếng “Meditations” thì ở phương Đông hơn mười hai thế kỷ sau có Vua Trần Nhân Tông của nước Việt. Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, triều đại của Vua Trần Nhân Tông là triều đại cực thịnh nhất của sử Việt. Ông là vị vua liêm chính, nhân đức, một thi sĩ, đạo sĩ Phật giáo. Do là một vị vua đức độ, trọng dụng nhân tài, nên ông thu phục nhiều hào liệt trong dân, lòng người như một. Quốc triều có Thái sư Trần Quang Khải, về binh sự có các danh tướng Trần Quốc Tuấn, Trần Quốc Toản, Phạm Ngũ Lão, Trần Khánh Dư, Trần Nhật Duật…Về văn thơ có những người uyên bác như Trương Hán Siêu, Mạc Đĩnh Chi. Vua Trần Nhân Tông thương dân như con, xem trung hiếu làm đầu, lấy đạo nghĩa trị quốc.
Biển Đông hiện như một thùng thuốc súng và, liệu nếu xung đột bùng ra, chúng ta có phải đối phó với một quân đội Trung Quốc man rợ mà, so với quân đội Thiên hoàng Nhật trong Thế chiến thứ hai, chỉ có thể hơn chứ khó mà bằng, đừng nói chuyện thua? Như có thể thấy từ tin tức thời sự, cảnh lính Trung Quốc vác mã tấu xông lên tàu tiếp tế của Philippines chém phá trông man rợ có khác nào quân cướp biển từ tận hai, ba thế kỷ trước? [1] Rồi cảnh chúng – từ chính quy đến dân quân biển, thậm chí cả ngư dân – trấn lột, cướp phá, hành hung và bắt cóc các ngư phủ Việt Nam từ hơn ba thập niên qua cũng thế, cũng chính hiệu là nòi cướp biển.
Hội nghị Trung ương 10/khóa đảng XIII kết thúc sau 3 ngày họp (18-20/09/2024) tại Hà Nội nhưng không có đột phá nào, mọi chuyện vẫn “tròn như hòn bi” dù đây là hành động đầu tiên của tân Tổng Bí thư Tô Lâm...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.