Hôm nay,  

“huyền Tích Việt” Của Phạm Trần Anh

11/16/200800:00:00(View: 9674)

“HUYỀN TÍCH VIỆT” CỦA PHẠM TRẦN ANH

Tiến sĩ  Nguyễn Thanh Liêm
Sau hai quyển Nguồn Gốc Việt Tộc và Đoạn Trường Bất Khuất, Phạm Trần Anh vừa cho ra đời tác phẩm mới: "Huyền Tích Việt". Đoạn Trường Bất Khuất cho thấy sĩ khí cao cả, bản tính cương cường, tinh thần bất khuất của con người Phạm Trần Anh trong hơn hai mươi năm trời sống đày đoạ, khổ sở trong lao tù cộng sản. Tuy nhiên con người đặc biệt này không nhân hoàn cảnh đau khổ đó để nghiền ngẫm về một triết lý sống, một chủ trương chính trị hay một áng văn tố giác những tệ hại của chế độ độc tài, phi nhân hiện hữu. Ông lại lấy cơ hội này để đưa hết tâm trí mình vào công cuộc suy tư sâu xa về nguồn gốc dân tộc Việt và nền văn minh khá cao của dân tộc từ trước khi có sự bành trướng của văn hoá Hán tộc trên khắp Trung Hoa ngày nay.
Các sử gia, các khoa học gia, các học giả Việt Nam và ngoại quốc xưa nay cũng đã có nhiều người từng nghiên cứu và viết về đề tài này. Người ta đi tìm dấu vết, chứng tích, sưu tầm tài liệu, phân tích, tìm cách cắt nghĩa, nêu ra giả thuyết về nguồn gốc dân tộc Việt và nền văn hoá/văn minh của giống dân này từ lúc khởi đầu. Phạm Trần Anh cũng làm công việc đó, nhưng kết quả nghiên cứu của ông cho thấy ông có cái nhìn mới mẻ hơn, thuyết phục hơn về gốc tích, vùng địa lý và văn minh của những người Việt thuở xa xưa. Có ba nguồn tài liệu chính mà xưa nay ai cũng tựa trên đó để tìm hiểu về đề tài trên. Trước hết là những chứng tích lịch sử tìm thấy trong sử Tàu. Hầu hết các sử gia Việt Nam và ngoại quốc từ trước tới giờ thường hay dựa trên sử Tàu để viết nên sử Việt mà không để công đánh giá cho thật đúng những sử liệu này. Phạm Trần Anh đã để công phân tích và nhận định khá rõ ràng chính xác về tâm lý (mặc cảm tự tôn) của những người Trung Hoa tác giả của những bộ sử đó. Ông cho thấy phần đông các nhà viết sử Trung Quốc đều có định kiến xem dân tộc Việt là một loại dân mọi (Nam Man và Đông Di), kém văn minh, xem nước Việt như một nước phụ thu"c luôn tùng phục nước Tàu, cho nên họ không bao giờ chấp nhận những sự thật lịch sử nào cho thấy có sự thấp kém của Trung Hoa đối với Việt Nam. Bởi khuynh hướng chung tự tôn đó của các nhà viết sử Tàu nên một số những sự thật lịch sử đã bị bóp méo. Theo ông những sự thật lịch sử này chỉ có thể tìm thấy trong những tác phẩm của những người Việt viết ra g"i là ngo"i th" và thường bị các sử gia Trung Quốc gạt ra ngoài chính sử của họ. Thành ra những ai chỉ dựa trên các bộ sử của Tư Mã Thiên, hay những bộ Tiền Hán Thư, Hậu Hán Thư, Đường Thư, Lương Thư, v v . . . đều có thể đi vào con đường sai lầm cố tình của Trung Quốc. Theo ông thì người Việt chúng ta nên khai thác những bô sử do chính người Việt mình viết mới có hy vọng đến gần với sự thật hơn. Một nguồn tài liệu quan trọng nữa mà xưa nay những nhà viết sử đã hoặc coi thường, hoặc không biết khai thác nên đã không có cái nhìn đúng về toàn thể nền văn minh gốc của người Việt. Nguồn tài liệu đặc biệt đó là huyền sử, truyền thuyết về giồng giống người Việt. Phần lớn chúng ta đều biết những truyền thuyết Rồng-Tiên, Lạc Long Quân -Âu Cơ, chuyện 100 trứng nỡ ra 100 người con trai, chuyện 50 theo cha xuống biển, 50 người theo mẹ lên núi, chuyện mười tám đời Hùng Vương, chuyện Phù Đổng Thiên Vương, chuyện nỏ thần, chuyện Trọng Thuỷ-Mỵ Châu ……..  Tất cả những sách sử về Việt Nam đều có đề cập đến những truyền thuyết này nhưng hầu hết đều xem như những câu chuyện thần thoại, không có giá trị khoa học đối với nhà viết sử, và do đó không có liên hệ chặt chẽ với sự thật lịch sử. Phạm Trần Anh, trái lại, đặt nặng giá trị của huyền sử đối với lịch sử đúng thật của dân tộc Việt Nam. Theo ông ý nghĩa của các câu chuyện, tên của các nhân vật, địa danh trong các câu chuyện đều mật thiết liên hệ tới vùng địa lý và nền văn minh xưa của dân tộc Việt Nam. Đối với ông huyền sử Việt là một kho tàng tài liệu rất có giá trị lịch s" nếu người ta biết triệt để khai thác. Và ông đã làm công việc đó qua tác phẩm "Huyền Tích Việt" của ông. Từ những dấu vết tìm thấy trong những sách sử do người Việt sáng tác mà người Trung Hoa đã gạt bỏ ra ngoài chính sử của họ đến những tên người, địa danh, cùng ý nghĩa của các huyền sử Việt, Phạm Trần Anh đã dựng lại buổi đầu của giống nòi Lạc Việt trên vùng đất bao la của cả phân nữa miền Nam nước Tàu ngày nay tr"i dài từ phía Nam sông Hoàng Hà xuống tận đồng bằng sông Hồng ở Bắc Việt, với những đặc tính văn hoá đã mở mang mà người Hán khi vào xâm chiếm Trung Quốc đã phải học hỏi, thấm nhuần và chiếm hữu, biến thành văn hoá Trung Quốc. Nước Việt mênh mông với nền văn hoá mở mang từ thuở xa xưa đó cũng đã được Phạm Trần Anh đối chiếu với nguồn tài liệu thứ ba, là kết quả của những công trình nghiên cứu của nhiều ngành khoa học như nhân học (anthropology), khảo cổ học (archeology), sinh vật học (biology), ngôn ngữ học (linguistic), khoa di truyền (nghiên cứu chủng tộc theo DNA) v v . . . Kết quả của những công trình nghiên cứu khoa học này phần lớn cho thấy giả thuyết của Phạm Trần Anh có giá trị đúng về nước Việt và nền văn hoá xưa của dân tộc Việt trước khi bị Hán tộc xâm chiếm.


Cùng với quyển Nguồn Gốc Dân Tộc Việt, quyển Huyền Tích Việt của Phạm Trần Anh góp phần rất lớn vào công việc tìm hiểu nguồn gốc của người dân Việt, tìm hiểu nước Việt lớn lao xưa, và nhất là tìm hiểu trình độ văn minh của người Việt từ hơn mấy ngàn năm trước. Kết quả của nhiều năm nghiền ngẩm, nghiên cứu của ông đã giúp chúng ta có những kiến thức vững chắc hơn về nền văn hiến của chúng ta, chính nền văn hiến đó đã là nền tảng của văn hoá Trung Hoa sau này chớ không phải ngược lại. Người Hán đã vào Trung Quốc, xâm chiếm. đất nước này, bành trướng về phương Nam lấn áp nước Việt xưa. Chính người Hán đã học hỏi, th"m nhuần văn hoá Việt thuở xa xưa, chiếm lấy văn hoá Việt làm văn hoá Trung Hoa, rồi lại đem văn hoá đó ảnh hưởng lại người Việt chúng ta sau này khi họ xâm lấn đô hộ dân mình. Công trình biên soạn của Phạm Trần Anh đem lại nhiều hnh diện cho dân tộc Việt Nam. Huyền Tích Việt cũng như Nguồn Gốc Dân Tộc Việt rất xứng đáng có một ch" đứng quan trọng trong tủ sách của người Việt Nam, nhất là cho các thế hệ sau này.        
LL: Email [email protected]
Gửi check 15UDS về:
Nganhoang
10095 Larson Ave,
Garden Grove CA 92843

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Tháng 10/1954, ông Trần Văn Hương được bổ nhiệm làm Đô Trưởng thủ đô Sài Gòn nhưng chỉ được vài tháng ông xin từ chức không cho biết lý do. Ngày 26/4/1960, ông Hương cùng 17 nhân sĩ quốc gia thành lập nhóm Tự Do Tiến Bộ, tổ chức họp báo công bố một bản tuyên cáo tại khách sạn Caravelle. Nội dung Bản Tuyên Cáo rất ôn hòa chỉ yêu cầu Tổng thống Ngô Đình Diệm mở rộng chính quyền để các nhà trí thức có thể hợp tác với chính phủ nếu được yêu cầu. Ngày 11/11/1960, ông Hương ký tên ủng hộ cuộc đảo chánh do Đại tá Nguyễn Chánh Thi khởi xướng, ông bị bắt trong tù ông có viết một tập thơ lấy tên là “Lao trung lãnh vận” (Những vần thơ lạnh lẽo ở trong tù).
Làm người, không có gì hào sảng hơn, là được sinh tử với những gì mình hằng mong sinh tử cùng. Làm phóng viên, không có gì cảm hứng hơn là được thành nhân chứng của những nhân chứng và sự kiện. Cả hai nguyện ước, đời và nghề, đã làm nên một miền hoa cỏ có tên gọi là Kiều Mỹ Duyên.
Bạn có bao giờ ôm giấc mơ đặt chân lên cát nóng sa mạc và đứng đối mặt cùng một Kim Tự Tháp vĩ đại, khi học sử về Ai Cập Cổ Đại ngày còn bé thơ chưa? Bạn có từng ước ao được thấy bức tượng Nhân Sư tận mắt hơn là xem hình ảnh trên mạng hay phim ảnh không?
Với phần lớn dân Việt tị nạn vẫn còn sống sót từ thế kỷ qua thì quên vẫn thường dễ chịu hơn là nhớ, kể cả những kẻ đang cầm quyền ở đất nước này. Những dịch vụ “bán bãi thu vàng” của người vuợt biên, tuy có mang lại lợi nhuận không nhỏ nhưng lại không phải là kỳ tích kinh tế để họ có thể tự hào. Đó là lý do mà nhà nước hiện hành vận động mọi phương thức ngoại giao để yêu cầu các nước Á Châu “đục bỏ bỏ những bia tưởng niệm thuyền nhân.” Chối bỏ quá khứ, tuy thế, không phải là phương cách tích cực để tiếp cận với hiện tại hay hướng đến tương lai. Vết thương của những thuyền nhân vào cuối thế kỷ hai mươi vẫn chưa kịp khép thì đầu thế kỷ này lại phát sinh ra những thuyền nhân mới. Tuy có tên gọi là nouveaux boat people nhưng họ không di tản bằng đường thủy.
Diệt chủng người Duy Ngô Nhĩ là hàng loạt các vi phạm nhân quyền đang diễn ra đã được thực hiện bởi chính quyền TQ chống lại người Duy Ngô Nhĩ và các nhóm dân tộc và tôn giáo thiểu số trong và chunh quanh Vùng Tự Trị Duy Ngô Nhĩ ở tỉnh Tân Cương (XUAR) của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, theo bản tin “Uighurs: 'Credible Case' China Carrying Out Genocide” được đăng trên BBC News tiếng Anh vào ngày 8 tháng 2 năm 2021.
Nhiều năm sau, mỗi năm đến ngày 30 tháng 4, nhớ lại những ngày chinh chiến trên quê hương, những trang chiến sử Bảo Quốc An Dân oai hùng của người lính quốc gia được lần lượt lật qua cùng với những đoạn đường khổ nạn của dân tộc mà đoàn quân Mũ Đỏ đã kinh qua, câu nói của vị cựu Tư lệnh "Nhảy Dù là phải như vậy" cũng là câu nói của các thế hệ người lính Nhảy Dù Việt Nam Cộng Hòa, một đời tận trung báo quốc
Các cuộc khảo sát và nghiên cứu từ chính phủ, các tổ chức dân sự cho đến đại học đều cho thấy, dù có những bước tiến bộ to lớn cũng như được luật pháp bảo vệ, trên thực tế thì các phân biệt đối xử dựa trên sắc tộc, giới tính, tuổi tác... vẫn còn hiện hữu trong xã hội Mỹ. Riêng trong vấn đề bạo lực cảnh sát thì rủi ro một người da đen hay da màu bị cảnh sát bắn chết hay đối xử bất công đều cao hơn người da trắng.
Tỉnh thức thân phận là vấn đề kiến thức; xác định ý muốn để thay đổi là vấn đề quyết tâm. Nếu còn sống trong vô cảm, mang tâm trạng nô lệ tự nguyện hay còn Đảng còn mình và chờ đợi hạnh phúc giả tạo do Đảng, Trung Quốc, Hoa Kỳ và cộng đồng quốc tế ban phát, thì người dân sẽ còn tiếp tục thua trong đau khổ. Không ai có phép lạ để chuyển hoá đất nước thay cho chúng ta. Vấn đề là sự chọn lựa.
Người già nghĩ về quá khứ, còn người trẻ nghĩ đến tương lai. Người trẻ Việt Nam đã có mặt trong chính quyền, làm việc ở phủ Tổng Thống, ở Quốc Hội, là Dân Biểu, Thượng Nghị Sĩ, Chánh Án của liên bang, của tiểu bang, làm Tướng và giữ những chức vụ quan trọng ở Bộ Quốc Phòng. Tuổi trẻ Việt Nam là khoa học gia, là thương gia, là giáo sư đại học. Người trẻ có mặt khắp nơi, ở Mỹ, Úc, Á, Âu Châu. Người trẻ Việt Nam tiến rất nhanh.
Ở Việt Nam, người dân không hiểu tại sao công tác phòng, chống Quốc nạn tham nhũng cứ “vẫn còn nghiêm trọng và tinh vi” mãi sau 16 năm có Luật phòng, chống tham nhũng đầu tiên (2005), 3 năm sau có Luật thứ nhì (2018) và sau 9 năm (2012) Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng được chuyển từ Chính phủ sang Bộ Chính trị do Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng làm Trưởng Ban.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.