Hôm nay,  

Trần Bình Nam Trả Lời Rfa: Khéo Với Tq, Hay Nhu Nhược?

11/09/201000:00:00(Xem: 6854)

Trần Bình Nam Trả Lời RFA: Khéo Với TQ, Hay Nhu Nhược"

LTS. Khôn khéo hay nhu nhược" Có lợi hay bất lợi" Bài này nguyên khởi là do Thanh Quang, phóng viên đài Á Châu Tự Do, phỏng vấn Trần Bình Nam Chung quanh lời tuyên bố của ông Nguyễn Chí Vịnh.
Phát sóng trên RFA lần đầu tiên sáng Thứ Năm 9/9/2010 giờ Việt Nam. Bài lưu ở: http://www.tranbinhnam.com/binhluan/NguyenChiVinhBaKhong.htm.
*
Thanh Quang: Thưa ông, tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ trưởng Bộ QPVN, bị nhiều chỉ trích về hành động sai trái của ông ta trong quá khứ, nhất là liên quan vụ Tổng Cục 2 và T4. Đặc biệt là gần đây nhất, ngay sau diễn tiến tốt đẹp về mối quan hệ quốc phòng Việt-Mỹ được nâng lên cấp thứ trưởng lần đầu tiên, qua đó tướng Nguyễn Chí Vịnh gặp gỡ Thứ trưởng Quốc phòng Mỹ Robert Shers, thì ông Vịnh sang Bắc Kinh nhấn mạnh rằng VN “ủng hộ và vui mừng” trước sự phát triển quốc phòng của TQ, và cam kết chính sách quốc phòng “3 không” của VN mà chúng ta sẽ đề cập ở phần sau. Điều này khiến nhiều ý kiến phẩn nộ, cho rằng tướng Vịnh nói riêng và Hà Nội nói chung luồn cúi, nhu nhược trước Bắc Kinh và bỏ qua cơ hội khai thác sức mạnh của Mỹ để bảo vệ tổ quốc.
Nhưng trong bài viết hồi đầu tháng 9 này tựa đề “Một cách nhìn khác về Nguyễn Chí Vịnh – Thứ trưởng Bộ Quốc Phòng”, ông đã mở đầu rằng “…trong sự chuyển hướng chính sách trước mắt, ông Nguyễn Chí Vịnh đã thi hành công tác ngọai giao/chính trị của Bộ Chính trị đảng CSVN một cách hòan hảo xứng hợp với chức vụ thứ trưởng Bộ Quốc phòng của ông”.
Xin ông cho biết lý do ông lập luận như vậy"
Trần Bình Nam: Tôi không có ngạc nhiên gì khi thấy có một số báo chí và một số nhà bình luận hải ngoại chỉ trích tướng Nguyễn Chí Vịnh, là vì ông ta từng mang tiếng là thân Trung Quốc. Thân Trung Quốc đã trở thành cái nhãn hiệu của ông ta. Nhưng nếu chúng ta tạm quên cái nhãn hiệu đó để quan sát và phân tích động thái và lời lẽ của ông qua cuộc họp báo tại Bắc Kinh ngày 25 tháng 8 vừa rồi thì chúng ta phải công nhận rằng trước những câu hỏi hắc búa của báo giới, ông Vịnh đã trả lời rất khôn khéo và rất ngoại giao. Nội dung các câu trả lời của ông Vịnh đã xác định được cái lập trường của Chính Phủ Việt Nam là không thiên về phe nào trong hai phe Hoa Kỳ và Trung Quốc.
Thanh Quang: Trong thời gian gần đây ngày càng có nhiều dấu hiệu khá rõ nét và đáng ngại là giới lãnh đạo Hà Nội tỏ ra quá mềm yếu, không bảo vệ được ngư dân Việt Nam, rồi sẵn sàng nặng tay đối với người dân dám công khai phản đối Phương Bắc ngang ngược lấn lướt Việt Nam, nhưng qua bài viết vừa nói của ông thì ông lưu ý rằng có dấu hiệu từ nhiều năm qua họ - tức cấp lãnh đạo chóp bu của Đảng CSVN - trăn trở tìm một con đường thoát nanh vuốt của Trung Quốc.
Xin ông giải thích về điểm này ạ.
Trần Bình Nam: Vâng, có một điều chúng ta cần nhận thấy là thế nước nhỏ đôi khi rất khó khăn, nhất là giữa nước nhỏ như Việt Nam chúng ta bên cạnh một nước lớn như Trung Quốc đang vươn lên để trở thành siêu cường. Nước nhỏ cạnh nước lớn như vậy muốn yên thân thì phải khôn khéo, giống như ông cha chúng ta trong quá khứ có lúc rất mạnh có thể đánh Trung Quốc nhưng vẫn phải khôn khéo với Trung Quốc như thường.
Và càng phải khôn khéo khi không có một đối trọng nào với Trung Quốc bên cạnh. Nhưng đôi khi khéo quá thì cũng trở thành nhu nhược như chúng ta đã thấy. Hà Nội có vẻ nhu nhược đối với Trung Quốc trong các vụ tranh đất, tranh biển, vụ nhượng mỏ bô-xít, vụ ngư dân Việt Nam bị Trung Quốc bắt nạt và không được bảo vệ một cách thích đáng, vụ Hoàng Sa - Trường Sa, v..v.
Nhưng dưới cái bề ngoài rắc rối mọi bề đó chúng ta cũng ghi nhận được là Hà Nội cũng đã từng trăn trở tìm con đường thoát hiểm. Về vấn đề này thì giữa năm 2008 ông Giáo Sư Carl Thayer, thuộc Viện Nghiên Cứu Quốc Phòng Úc Châu, có viết một tài liệu, mà theo nội dung tài liệu đó thì các hoạt động tìm đường thoát hiểm của Việt Nam đối với Trung Quốc được bắt đầu ngay sau khi Việt Nam tái thiết lập bang giao trong tư thế cầu cạnh Trung Quốc, sau khi Khối Liên Xô sụp đổ, không còn chỗ dựa vào năm 1991. Và sự tìm đường thoát hiểm này chuyển biến theo một nhịp độ nhanh hơn kể từ Đại Hội X của Đảng CSVN năm 2006, nhất là sau chuyến thăm viếng của Tổng Thống Bush và Việt Nam gia nhập Tổ Chức Mậu Dịch Thế Giới (WTO).
Theo tài liệu đó, nói về nỗ lực thoát hiểm trong lĩnh vực ngoại giao thì từ tháng 11-1991 khi Việt Nam tái thiết lập bang giao với Trung Quốc cho đến năm 2004 Việt Nam đã nỗ lực tối đa tìm kiếm đồng minh và làm thân với nhiều nước trên thế giới như Ấn Độ, Liên Bang Nga, Hoa Kỳ, Pháp, Nam Dương (Indonesia), Singapore, Nhật Bản, Úc, ngay cả những nước rất là nhỏ như Miến Điện (Myanmar), Ukraine, Ba Lan, v.v. và đặc biệt trong láng giềng của mình Việt Nam thắt chặt quan hệ quốc phòng với các nước trong Hiệp Hội Các Quốc Gia Đông Nam Á (ASEAN), nhất là với Thái Lan và Phi Luật Tân (Philippines).
Về mặt quốc phòng thì từ năm 1991Việt Nam đã bắt đầu lo trang bị vũ khí và mua khá nhiều vũ khí của Nga, và chẳng những của Nga mà còn mua vũ khí của Do Thái, của Nam Hàn (Hàn Quốc).
Và khởi điểm từ Đại Hội X của Đảng CSVN tháng Tư năm 2006, nhất là khi Tổng Thống Mỹ George W. Bush đến Hà Nội dự hội nghị thưởng niên APEC cuối năm đó và sau khi Việt Nam vào WTO, theo tài liệu của GS Carl Thayer, thì trong nội bộ giới lãnh đạo Hà Nội đã xuất hiện hai khuynh hướng, một khuynh hướng bảo thủ tức là khuynh hướng cảnh giác chính sách diễn biến hòa bình của Hoa Kỳ, và một khuynh hướng khác gọi là khuynh hướng hội nhập chủ trương hòa mình nhanh chóng vào kinh tế toàn cầu, mà trong đó Hoa Kỳ là một đối tác quan trọng.


Và mới đây nhất, từ tháng 7, sau hội nghị ARF tại Hà Nội, Ngoại Trưởng Hillary Clinton đến đó và công bố chính sách mới của Hoa Kỳ tại Biển Đông, nhìn những động thái của Việt Nam thì thấy ngay rằng Việt Nam hết sức phấn khởi trong sự thay đổi chính sách của Hoa Kỳ, chứng tỏ rằng Việt Nam từng trăn trở tìm đường thoát hiểm khỏi nanh vuốt của Trung Quốc. Và đến thời điểm này là thời điểm thuận lợi nhất vì có thêm một đồng minh Hoa Kỳ, mặc dù Hoa Kỳ hành động vì quyền lợi của Hoa Kỳ. Nhưng khi hai bên có những quyền lợi như nhau thì có thể hợp tác và thỏa thuận với nhau trong các công việc chung.
Thanh Quang: Trở lại chính sách ba không mà Việt Nam cam kết với Bắc Kinh, gồm (1) không tham gia các liên minh quân sự hoặc là đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào, (2) không cho bất kỳ nước nào đặt căn cứ quân sự tại Việt Nam, và (3) không dự vào nước này để chống nước kia.
Theo ông, chính sách quốc phòng “ba không” đó liệu có gây trở ngại cho sự hợp tác quân sự Việt - Mỹ không, và có mở đường cho Bắc Kinh dễ lấn chiếm Việt Nam hơn hay không"
Trần Bình Nam: Tôi không nghĩ như vậy. Chúng ta nên nhớ rằng trong thời gian Chiến Tranh Lạnh, các quốc gia trên thế giới, nhất là các nước nhỏ phải sắp hàng dưới hai chiếc dù, hoặc là chiếc dù Liên Bang Xô Viết, hoặc là chiếc dù Hoa Kỳ, vì vậy cho nên trong thời gian đó liên minh quân sự là chuyện thông thường, Nhưng 20 năm qua, sau khi Chiến Tranh Lạnh chấm dứt chúng ta thấy vấn đề liên minh quân sự rất ít được đặt ra vì không có nhu cầu đó. Trong bối cảnh đó chính sách “ba không” của Việt Nam hoàn toàn không có tính chất gì chống Hoa Kỳ cả. Nó chỉ là một chính sách thực tế, phù hợp với thực trạng thế giới hôm nay mà thôi.
Chính sách "ba không" đó theo tôi nhận xét là một chính sách cân đối, khôn ngoan, phù hợp với thế đứng và quyền lợi của Việt Nam hiện nay. Việt Nam không cần phải chính thức liên minh quân sự với Hoa Kỳ mới được bảo vệ. Nếu bị Trung Quốc tấn công một cách vô cớ thì Hoa Kỳ và thế giới với lời yêu cầu chính thức của Việt Nam vẫn có thể đến giúp đỡ như thường.
Và chúng ta nên để ý cách phát biểu của ông Nguyễn Chí Vịnh khi ông nói về chính sách "ba không" . Ông Vịnh đã nói như thế này: "Về phần Việt Nam, chúng tôi sẽ không bao giờ trở thành đồng minh quân sự của Mỹ", nhưng ngay sau đó ông nhấn mạnh rằng "không chỉ với Mỹ mà Việt Nam sẽ không trở thành đồng minh quân sự với bất kỳ quốc gia nào", thì rõ ràng ý của ông Nguyễn Chí Vịnh là chính sách "ba không" là không với cả Hoa Kỳ và Trung Quốc, và do đó chính sách này không thể được xem là chính sách chống Hoa Kỳ mà cũng không nên xem đây là chính sách thân Trung Quốc.
Chính sách "ba không" sẽ không gây trở ngại cho các chương trình trao đổi quân sự hiện có giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, và cũng không tạo thêm điều kiện nào dễ dãi để cho Bắc Kinh lấn chiếm Việt Nam cả.
Thanh Quang: Và sau cùng, thưa ông, khi lên tiếng với Đài Tiếng Nói Việt Nam thường trú tại Bắc Kinh thì Tướng Nguyễn Chí Vịnh có nói rằng Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng có quan hệ đại cục tốt đẹp cho nên trước sự phát triển của Trung Quốc, trong đó có phát triển quốc phòng, Việt Nam ủng hộ và vui mừng, sự ủng hộ ấy phát xuất từ mong muốn và niềm tin rằng Trung Quốc sẽ không sử dụng sức mạnh của mình để làm phương hại tới chủ quyền và lợi ích của các nước khác, và cũng không sử dụng sức mạnh ấy làm phương hại tới hòa bình và ổn định của khu vực và thế giới. Thưa ông, liệu sự mong muốn và niềm tin như vậy của Tướng Nguyễn Chí Vịnh có mâu thuẫn với thực tại là Trung Quốc đã và đang gây phương hại tới chủ quyền và lợi ích của Việt Nam và sẵn sàng xử dụng sức mạnh khiến đe dọa tới hòa bình và ổn định trong khu vực và trên thế giới không ạ"
Trần Bình Nam: Vâng, tôi nghĩ lời ông Nguyễn Chí Vịnh dùng là "mong muốn và tin tưởng" một nước lân bang có nền quốc phòng vững mạnh để bảo vệ hòa bình, thì đó là ngôn ngữ ngoại giao thông thường thôi, không có tính cách gì gọi là xu phụ hay là làm yếu kém tư thế của Việt Nam. Hơn nữa, khi nói về sức mạnh quốc phòng của Trung Quốc có thể đóng góp cho những công việc hữu ích của thế giới thì ông Vịnh nói rằng ông mong muốn Trung Quốc sẽ dùng sức mạnh quốc phòng này để tham gia tích cực vào các việc cứu hộ, cứu nạn, cứu trợ thảm họa.
Ông Vịnh nghĩ rằng đó quả thực là một điều tốt cho cả Trung Quốc lẫn khu vực. Việc dùng sức mạnh quốc phòng như vậy thật sự hữu ích cho hòa bình thế giới và ổn định khu vực, như chúng ta nhớ Hoa Kỳ đã từng làm, đặc biệt trong vụ sóng thần tsunami đánh vào Indonessia và Thái Lan cách đây vài năm. Hoa Kỳ đã triển khai quân đội để tiếp tế lương thực, thuốc men, mùng mền cho các nạn nhân ở đó.
Và Việt Nam, theo cách phát biểu của ông Nguyễn Chí Vịnh, chỉ mong muốnTrung Quốc sử dụng sức mạnh quốc phòng như vậy mà thôi.
Nhân đây tôi cũng muốn nói rộng một điều là trong câu trả lời của ông Nguyễn Chí Vịnh ông dùng từ là "phát triển quốc phòng của Trung Quốc" và "quan hệ quốc phòng giữa Việt Nam và Trung Quốc", nhưng rất tiếc trong bản tin sớm nhất bằng Anh Ngữ của Tân Hoa Xã phổ biến ngay trong ngày hôm đó, ngày họp báo, tức ngày 25 tháng 8, thì Tân Hoa Xã đã cố tình viết chệch ra là "phát triển quân sự" và làm cho dư luận thế giới hiểu lầm quan điểm của Việt Nam.
Trong ngôn ngữ ngoại giao thì "phát triển quốc phòng" và "phát triển quân sự" có ý nghĩa khác nhau. Phát triển quốc phòng có thể bao gồm các lãnh vực ngoại giao, kinh tế, quân sự và nó có tính tự vệ, trong khi phát triển quân sự có tính “phóng tầm sức mạnh” ra ngoài và đe dọa lân bang.
Qua sự cầm nhầm chữ này trong bản tin Anh Ngữ của Tân Hoa Xã rõ là Trung Quốc cố ý nhập nhằng để cho thế giới thấy Việt Nam chỉ "ba không" với Hoa Kỳ nhưng lại ủng hộ sự phát triển sức mạnh quân sự của Trung Quốc. Tôi nghĩ đây là một sự cầm nhầm cần phải được đính chính.
Thanh Quang: Xin cảm ơn nhà bình luận Trần Bình Nam.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
“Ý thức xã hội mới Việt Nam “là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, những tình cảm, tâm trạng, truyền thống tốt đẹp, v.v. của cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ xã hội mới”. Nói như thế là cuồng tín, vọng ngoại và phản bội ước vọng đi lên của dân tộc...
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
Hí viện Crocus City Hall, cách Kremlin 20 km, hôm 22 tháng O3/2024, đang có buổi trình diển nhạc rock, bị tấn công bằng súng và bom làm chết 143 người tham dự và nhiều người bị thương cho thấy hệ thống an ninh của Poutine bất lực. Trước khi khủng bố xảy ra, tình báo Mỹ đã thông báo nhưng Poutine không tin, trái lại, còn cho là Mỹ kiếm chuyện khiêu khích...
Khi Việt Nam nỗ lực thích ứng với môi trường quốc tế ngày càng cạnh tranh hơn, giới lãnh đạo đất nước đã tự hào về “chính sách ngoại cây giao tre” đa chiều của mình. Được Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), thúc đẩy từ giữa thập niên 2010, ý tưởng là bằng cách cân bằng mối quan hệ của Việt Nam với các cường quốc – không đứng về bên nào, tự chủ và thể hiện sự linh hoạt – nó có thể duy trì sự trung gian và lợi ích của mình, đồng thời tận dụng các cơ hội kinh tế do tình trạng cạnh tranh của các đại cường tạo ra
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.