Ngô Đình Diệm - Nhận Xét Riêng
Sol Sanders
(Lời Việt Báo. Cuộc Hội Luận Kỷ Niệm 35 Năm Lưu Vong đã thực hiện hôm Thứ Tư 28-4-2010 tại Westminster, Calif. Sau đây là bài thuyết trình của Sol Sanders đã được dịch ar việt ngữ. Sanders là chuyên gia về Châu Á với hơn 25 năm làm việc ở vùng này, và là cựu phóng viên của Business Week, US News & World Report và UPI. Ông là giám đốc Trung Tâm Truyền Thông Đaị Chúng ở đaị học University of Hong Kong và là Phó Đoàn của Ngânhàngthế Giới tại Tokyo. Ông là tac1 giả nhiều sách nghiên cứu về Châu Á, hiện là Chủ Bút Kinh Doanh Quốc Tế của tờ Washington Times.)
Mùa Thu năm 1950, nỗ lực của người Pháp nhằm chiếm lại Đông Dương bị lâm vào khủng hoảng. Chế độ Cộng sản Trung Quốc đã củng cố được các vị trí dọc biên giới miền Nam của họ với vùng thuộc địa và bảo hộ cũ của Pháp. Nhờ vậy mà Bắc Kinh mới giúp quân du kích Việt Minh có vùng trú ẩn tại Trung Quốc và cho họ lách qua ba đèo núi rừng từ Bắc Việt chạy qua Tầu. Bộ chỉ huy Pháp khi ấy đang rút khỏi các vị trí trống trải vì căng mỏng trên vùng biên giới để kui về châu thổ sông Hồng.
Một tay kỳ cựu của Tây về Trung Quốc hỏi tôi: "Ông có là dân ở trong "dinh" không" Đấy là lối chơi chữ "parti" của Pháp, vừa hàm ý là ở trong một đảng [parti] vừa chuẩn bị dinh tê, rút chạy [partir]. Tâm lý của họ khi ấy thật u ám, chủ bại.
Là một ký giả độc lập tại Nam Dương, nơi tôi đang cố lập ra một tờ báo Anh ngữ, tôi được quăng vào Hà Nội. Khi đó , tôi không chỉ là một người còn trẻ, tương đối thiếu kinh nghiệm, nhưng còn dốt nát và khờ khạo tới bất ngờ về toàn bộ tình hình quân sự và chính trị. Và sự am hiểu của tôi về lịch sử Việt Nam chỉ thu gọn trong một hai cuốn sách viết bằng Anh ngữ vào thời ấy.
Nhưng tôi ở lại Hà Nội khoảng một năm - một năm mà tôi học được rất nhiều về Việt Nam - và nói cho thật thì về cả cuộc đời, khi thấy cuộc chiến đẫm máu xảy ra chung quanh mình.
Vào thời ấy ở Hà Nội, tôi là một trong khoảng nửa tá người Mỹ ở tại chỗ, đa số là viên chức gì đó của chính quyền. Khả năng Pháp ngữ của tôi, học được trong một năm ở viện Sorbonne hồi hai ba năm về trước, và thiện chí hướng dẫn của những người Việt thuộc mọi xu hướng chính trị, đã vén ra nhiều khía cạnh mới về cuộc chiến Đông Dương, về lịch sử chế độ thuộc địa, về sự thích ứng của Cộng sản Âu châu vào hoàn cảnh địa phương, và những thành tích đằng đẵng của tinh thần quốc gia của người Việt. Tôi đã có những buổi nói chuyện riêng tư với từng người trong ban tham mưu của Tướng Jean de Lattre de Tassigny vừa mới qua. Ông ta đến nơi và ban đầu có đảo ngược được một tình trạng phải nói là gần như tháo chạy khi đó. Tôi cũng có thời gian gặp người con trai của ông, một sĩ quan thiết giáp trẻ tại vùng hỏa tuyến, và sau này chết trận.
Đôi khi tôi ăn tối ở Hà Nội với một tay trí thức nơi đó là Hoàng Xuân Hãn, một chính khách từng làm bộ trưởng giáo dục của chính phủ Trần Trọng Kim thời còn người Nhật. Sau này, tôi biết thêm như mình đã nghi ngờ khi ấy, rằng ông ta không chỉ là cộng sản, mà còn là anh của một bà trong số các cô nhân tình của ông Hồ Chí Minh. Và, giữa các bài tường thuật chính thức hơn về tình hình chiến sự, tôi cũng quen nhiều người trong đoàn Lê dương Pháp, nhiều chuyên gia Pháp về Trung Quốc và Việt Nam, nhiều thường dân và cả chính khách Việt Nam Quốc dân đàng mà về sau tôi gặp lại ở Sàigon sau năm 1954 khi Việt Nam bị chia đôi và họ phải chạy vào Nam.
Trong những tháng ấy, tôi có để ý tới hai người khi đó còn trẻ là Trần Trung Dung và Nguyễn Đình Thuần. Họ cùng làm biên tập cho một tờ báo tiếng Việt, tờ Thời Báo, do bà góa phụ của Tướng Nguyễn Văn Xuân làm chủ. Có một giai đoạn ngắn mà Tướng Xuân làm Thủ tướng của Quốc gia Việt Nam. Sau này, tội quá, ông Dung bị tù gần hai chục năm trong trại tập trung ở Việt Nam. Nhưng cứng đầu tới cùng, ông đưa ra những thông điệp chống cộng gay gắt và dữ dội nhất trước khi mất tại California.
Hai người này đều là những nhà báo trẻ và am hiểu nhất - ông Thuần về sau làm Bộ trưởng Quốc phòng tại Sàigon - và thời ấy họ thường nói với tôi rằng có một nhân vật duy nhất đủ tầm vóc và khả năng thách đố lập luận của Hồ Chí Minh là người đại diện cho Việt Nam. Họ bảo tôi rằng đó là Ngô Đình Diệm. Ông xuất thân từ một gia đình thế giá và liên hệ đến triều đình Huế, và trong một giai đoạn ngắn từng là Thượng thư bộ Lại của Chính quyền An Nam dưới chế độ Bảo hộ trước khi từ chức vì bất đồng với Pháp. Người anh của ông ta là một trong những người tuẫn nạn trong 16 tháng chiến đấu, từ cuối Thế chiến II tới khi giao tranh bùng nổ giữa Pháp và Việt Minh khi Cộng sản hết nắm được Hà Nội. Trong những ngày tôi ở Hà Nội, có nhiều tấm bảng dựng trên các công thự trong thành phố để ghi rõ nơi chốn mà những người quốc gia chống lại bọn Cộng sản đã bị giết - cũng giống như các tấm bảng ghi dấu tại Paris sau ngày Giải phóng khỏi quân Đức quốc xã - và có một tấm bảng ghi lại việc bào huynh của Tổng thống Diệm bị giết.
Vào đầu Xuân năm 1951, ông Võ Nguyên Giáp đầy tham vọng đã vươn quá xa và đẩy các lực lượng dù sao mới chỉ là du kích của ông ta vào một hình thái chiến tranh cổ điển và cao độ với quân Pháp tại Nam Định, phía Nam châu thổ sông Hồng. Đấy là một vụ tàn sát mà các đơn vị Pháp - dù đã từng bị Đức quạt cho tơi tả - cũng thừa sức ra tay nhờ sức mạnh không yểm. Từ đó quân Cộng sản hết dám thử lại trò này cho đến những năm cuối của cuộc chiến tại miền Nam. Và, dù nổi danh tại Tây phương, Giáp hết giành lại được vị thế trong đảng Cộng sản vì thất bại ấy và việc ông ta kiểm soát được quân đội trong thượng tầng Cộng sản chỉ là chuyện hư cấu từ truyền thông Tây phương, hơn là một thực tế của những đấu đá thường xuyên trong nội bộ đảng.
Vào đầu mùa Hè năm 1951, tôi tin chắc rằng Pháp đang thua dần tại Đông Dương, nhưng cú dứt điểm chỉ xảy ra với việc Trung Quốc trực tiếp can thiệp - như họ sắp làm tại Cao Ly. Tôi quyết định là mình đã quá chán cảnh u buồn tại Hà Nội - ngược với đa số giới truyền thông đang sống với nhiều tiện nghi hơn ở Sàigòn. Tôi quay về Mỹ để tìm một vị trí hải ngoại có uy tín và khá giả hơn tại Á châu.
Khi tôi về đến New York thì tôi để ý tìm ông Diệm đang sống với dòng truyền giáo "Maryknoll Fathers" ngoài ngoại ô. Cuối cùng chúng tôi gặp nhau khi ông đến thăm căn phòng nhỏ của tôi ở khu Greenwich Village. Một cuộc gặp gỡ kỳ lạ. Khi ấy, tôi vừa được biết rằng các bài viết của tôi về Việt Nam không được đài Tiếng nói Hoa Kỳ Voice of America thâu nhận nữa vì trước đó tôi có tiếp xúc với Việt Minh. Còn dĩ nhiên thì ông Diệm đang là người tỵ nạn nghèo túng sống nhờ các cha Maryknoll khi họ vừa bị trục xuất khỏi Trung Quốc là nơi họ tới truyền giáo từ xưa rồi.
Chúng tôi ngồi nói chuyện nguyên ngày. Một buổi nói chuyện u ám.
Ông Diệm giảng giải cho tôi về các vấn đề của Việt Nam được ông đặt trong khung cảnh lịch sử. Nỗi bi quan của ông ta vào lúc ấy xuất phát từ cách ông suy diễn về lịch sử Việt Nam. Ông nói ách thống trị Trung Quốc là mối nguy trường cửu và hiện đang trở thành thực tế nếu không có một quốc gia thứ ba ở trong vùng. Và ông lo rằng Cộng sản Trung Quốc đang có vẻ củng cố được chế độ của họ. Ông Diệm quan ngại về mối tổn thất nhân sự quá lớn của chiến tranh [tại Đông Dương] và bực bội vì người Mỹ vẫn chưa hiểu gì về bản chất của cuộc đấu tranh. Ông Diệm tỷ mỉ phân tách những cố gắng bất thành của mình khi muốn can gián Bảo Đại, lúc đó đang ở Hong Kong, là đừng chấp nhận đề nghị của Pháp mà trở về làm Hoàng đế của một xứ nằm trong thực thể họ gọi là "Liên hiệp Pháp", và vì sao ông (Diệm) lại chọn cuộc sống lưu vong thay vì trở về trong những điều kiện ông gọi là không vẹn toàn của nên độc lập của Việt Nam.
Chúng tôi chia tay, tôi nhớ là với rất ít hy vọng cho một sự cải thiện của tình hình.
Cuộc gặp gỡ thứ hai - và cuối cùng tại Mỹ - của chúng tôi là trong một tiệm cơm Tầu gần cao ốc Chrysler. Một ngẫu nhiên thôi và chúng tôi cũng chẳng nói chuyện gì nhiều.
Thế rồi xảy ra vụ Điện Biên Phủ - mà phần nào bây giờ chúng ta đều biết là xác nhận sự suy đoán của tôi về số phận của Pháp do sự can thiệp của Trung Cộng. Sau khi bại trận, Pháp tung ra dự báo chung rằng miền Nam của xứ Việt Nam bị chia đôi sẽ rơi vào tay cộng sản trong vòng sáu tháng. Bộ Ngoại giao Pháp tại Quai d'Orsay ra vẻ nhượng bộ Foster Dulles, viên Ngoại trưởng của Tổng thống Eisenhower và là người đề xướng việc hăm dọa sẽ dùng võ khí nguyên tử tại Điện Biên Phủ: Paris đồng ý cho Quốc trưởng Bảo Đại bổ nhiệm ông Ngô Đình Diện làm Thủ tướng tại Sàigòn. Người bạn cũ của tôi là Đỗ Vạng Lý quay về Sàigòn làm Đổng lý Văn phòng cho ông Diệm.
Ngược với quan điểm phổ biến mà người ta tưởng là sáng suốt - của cả Pháp lẫn bộ Ngoại giao Hoa Kỳ - ông Diệm đã làm một số điều gần như phép lạ. Đó là củng cố lại chế độ với việc truất phế Bảo Đại, đạt một loạt thắng lợi quân sự chống các "giáo phái" và mấy cuộc đảo chánh do Pháp xúi giục, rồi lập ra một chính phủ ổn định tại Sàigòn. Quả là một chuỗi biến cố mà tôi đã có dịp trình bày ở nhiều nơi khác, khiến chánh sách Hoa Kỳ đảo ngược được cục diện, như nhờ sự can thiệp của Nghị sĩ Mike Mansfield, Chủ tịch Ủy ban Ngoại giao Thượng viện, qua trung gian ông Joseph Buttinger của Tổ chức Cứu trợ Quốc tế International Rescue Committee, và trưởng trạm CIA là Ed Lansdale.
Cuối năm 1958, từ vai trò phó biên tập về ngoại giao tại New York cho tạp chí Business Week tôi nhận nhiệm vụ mới là phái viên Á châu tại Tokyo. Tôi ghé ngang Sàigòn và có gần một ngày hàn huyên với Tổng thống Ngô Đình Diệm. Vâng, chúng tôi ngồi ngoài hiên của dinh Thống sứ cũ của Pháp, ăn phó mát Tây và uống trà - là điều mà ông bị giới "chờ thời" tại Sàigòn đả kích. Họ là thành phần trí thức đã từ chối cộng tác với chế độ mới. Ông Diệm nói đùa về hoàn cảnh mới của hai chúng tôi khi so sánh với lần gặp gỡ trước tại New York là lúc, như ông nói, chúng tôi đều không có việc làm.
Tổng thống Diệm trình bày tường tận cho tôi nghe những khó khăn của ông và của chế độ.
Như mọi khi, tôi ngạc nhiên về sự am hiểu uyên bác mà tỷ mỉ của ông. Một mỉa mai trong một chuỗi dài những lời đả kích ông Diệm của suốt giai đoạn ấy là ông bị chê là tách rời khỏi thực tế, rằng ông không biết gì về những chuyện xảy ra trong nước. Thật ra, tôi lại có thể nhận xét trái ngược qua lần tiếp xúc này và nhiều lần khác sau đó khi ông còn lãnh đạo, rằng ông Diệm quá chú ý đến tiểu tiết và muốn can dự vào những chuyện nhỏ ở dưới. Một lần, sau khi thăm viếng một vùng nhiễu loạn của châu thổ Cửu Long, tôi giật mình nghe ông mô tả một cây cầu đặc biệt cho một đường chuyển vận đặc biệt mà tôi đã thấy tại chỗ là rất quan trọng cho sinh hoạt của dân chúng địa phương.
Từ cuối năm 1961 đến 1970, hầu hết thời gian của tôi là làm thông tín viên tại Việt Nam cho tờ U.S. News and World Report. Tôi được rất nhiều cơ hội nói chuyện với Tổng thống, bào đệ của ông và bà Nhu. Nhận xét của tôi, như được tôi viết trong các bài tường thuật, lại không giống với quan điểm phổ biến của giới truyền thông mà tôi đánh giá là không am hiểu về bản chất và những phức tạp của cuộc đấu tranh.
Tháng 11 năm 1963, tôi đang nghỉ hè với bà mẹ gìa của mình từ New Dehli qua. Chúng tôi tham dự một chuyến du lịch bình thường tại Nam Á và Đông Á. Trong phòng khách của khách sạn Trocadéro ở Bangkok vào buổi sáng oan nghiệp đó, một nhà báo trẻ người Anh mà tôi quen từ Sàigòn đã nói hắt cho tôi: "Cuối cùng cuộc đảo chánh đã xảy ra. Ông Diệm bị bắt rồi".
Tôi nói với bà mẹ, giọng bình thản: "Họ sẽ giết ông cụ". Bà mẹ tôi hỏi: "Sao con nói vậy" Có khi ông ta được lưu vong chăng". "Họ không có can đảm nhìn ông cụ tận mặt."
Thật đáng tiếc là trong rất nhiều dự đoán sai lầm của tôi, lần đó lại đúng.
Còn lại, như người ta hay nói, chỉ là lịch sử.
Sol W. Sanders - 2010-04-06