Hôm nay,  

Gs. Nguyễn Tiến Hưng: “mở Cửa Bắc Kinh, Đóng Cửa Sàigòn”(3)

09/04/201000:00:00(Xem: 6478)

Gs. Nguyễn Tiến Hưng: “Mở Cửa Bắc Kinh, Đóng Cửa Sàigòn”(3)
Kissinger Và 3 Bước Chôn Sống VNCH

Tổng Thống Nixon hết sức tự hào về chuyến viếng thăm Trung Hoa của ông bắt đầu từ ngày 21 đến 28 tháng 2, 1972, một tuần lễ mà ông gọi là "Tuần lễ thay đổi cục diện thế giới" (The week that changed the world). Đối với Miền Nam thì thay đổi thật, vì trong dịp này, Nixon đã nói với ông Chu Ân Lai: "Nếu tôi ngồi đối diện với bất cứ ai là nhà lãnh đạo của Bắc Việt, và nếu hai bên có thể thỏa hiệp ngưng bắn và hoàn trả các tù binh chiến tranh (POWs) của chúng tôi, thì tất cả quân đội Hoa Kỳ sẽ rút khỏi Việt Nam trong vòng sáu tháng kể từ ngày ấy." (13)
Như vậy rõ ràng là Nixon đã tiết lộ ông sẵn sàng rút quân khỏi Việt Nam chỉ cốt đổi lấy việc trao trả tù binh và một cuộc ngưng bắn. Và ông chỉ viết có vậy. Nhưng những điều gì mà Nixon không viết trong hồi ký về cuộc họp này thì rút cuộc cũng đã lộ ra hết.
* "Sẽ không để lại
cái đuôi nào ở Việt Nam."
Theo tài liệu mới giải mật thì trong buổi họp làm việc đầu tiên với phía Trung Hoa tại Bắc Kinh (ngày 22 tháng 2, 1972), Tổng Thống Nixon đã nói thẳng thừng về ý định của ông là rút quân hoàn toàn khỏi Việt Nam mà không để lại một "cái đuôi"  (lực lượng tàn dư - residual force):
"Chúng tôi đã tự nguyện rút hết quân mà không để lại cái "đuôi" nào - như lời ông Thủ Tướng đã nói - và chúng tôi sẽ có ngưng bắn trên toàn cõi Đông Dương miễn là chúng tôi lấy lại được tù binh. Sau đó, chúng tôi sẽ để cho dân chúng ở đó tự mình quyết định lấy (mọi việc)."
["We have offered to withdraw all Americans, with no   "tail"  behind -to use the Prime Minister's expression- and you have a ceasefire throughout Indochina provide we get our prisoners back. Then we would let the decision be made by the people there."]
Trường hợp ở Đại Hàn sau cuộc chiến tranh Triều Tiên cũng như ở Âu Châu sau Thế Chiến II, sau bao nhiêu chục năm và cho tới ngày nay, Hoa Kỳ vẫn đóng lại một lực lượng tượng trưng. Chính Tướng Creigton Abrams, Tư Lệnh Quân Lực Mỹ ở Việt Nam, cũng luôn nói là sẽ có một "residual force" đóng tại Miền Nam khoảng 25.000 người cộng với số nhân viên tiếp vận. (14) Tổng Thống Thiệu cũng luôn hy vọng là sau cùng thì Mỹ sẽ để lại một lực lượng nhỏ giống như ở Đại Hàn. Sau này, Tướng Abrams đã phải phàn nàn về việc Hoa Kỳ đã bỏ đi lập trường từ bao nhiêu năm như vậy.
Nixon cũng than phiền về việc Bắc Việt cứ... "khăng khăng đòi chúng tôi giải quyết không những vấn đề quân sự mà còn muốn chúng tôi phải áp đặt một tương lai chính trị bằng cách triệt bỏ chính quyền hiện tại và áp đặt một chính quyền do họ lựa chọn. Điều này chúng tôi không thể làm được vì vừa rút quân vừa thông đồng với phía địch để lật đổ một đồng minh thì từ nay không quốc gia nào sẽ tin cậy Hoa Kỳ nữa." Rồi dường như muốn nhắn nhủ Hà Nội, Nixon thêm: "Chúng tôi sẽ không ra đi mà không có một hiệp định." Phải có một hiệp định thì mới có thể ra đi trong danh dự.

* "Tôi đang gỡ bỏ
cái nhức nhối này đi."
Bây giờ việc Hoa Kỳ giao hảo với Trung Hoa mới là chính yếu, và Việt Nam đã trở thành một chướng ngại vật trong cuộc giao hảo, Nixon cam đoan với ông Chu, lại còn đổ cho tiền nhiệm là Tổng Thống Johnson là người đã mang quân vào Việt Nam, còn ông mới là người rút quân đi:
"Chúng ta có thể rất thành thật trong buổi nói chuyện này... Tôi muốn cam đoan với Thủ Tướng rằng tôi đang gỡ bỏ cái nhức nhối này đi, nhanh chóng nhất như một người ở địa vị tôi có thể làm được. Vị tiền nhiệm của tôi gửi 500.000 quân sang Việt Nam. Tôi đã rút đi 500.000 quân. Việc tôi sẽ chấm dứt sự can dự của Hoa Kỳ chỉ là vấn đề thời gian. Về điểm này tôi có thể nói chắc chắn với Ngài như vậy."
["We can be very honest in this conversation... I want to assure the Prime Minister I am removing this irritant as fast as anyone in my position could. My predecessor sent in 500,000 men into Vietnam, I;ve taken 500,000 out. I will end American involvement.   it's matter of time. I can speak with certainly on this point."]
Đúng là chỉ còn vấn đề thời gian để rút nốt số quân còn lại, với điều kiện duy nhất là Hà Nội phải ký một hiệp ước. Nixon nói: "Tất cả những điều chúng ta đang nói thật ra chỉ làm sao là liệu có thể giúp cho tiến trình mau lẹ hơn, không phải bằng cách chúng tôi hấp tấp rút quân mà bằng một hiệp định."
Đó là những chuyện đã xẩy ra tại Bắc Kinh, nhưng về tới Washington, TT Nixon lại tiếp tục trấn an ông Thiệu vì cần phải làm như vậy để ông Thiệu khỏi công khai phản ứng. TT Nixon liền viết cho TT Thiệu (ngày 2 tháng 3, 1972) cam đoan: "Chúng tôi không có thương lượng bất cứ điều gì sau lưng những người bạn của Hoa Kỳ; đã không có thỏa thuận bí mật nào hết." ["We negotiated nothing behind the backs of friends of the United States; there was no secret deals."]
Để cho có trọng lượng, Nixon còn khẳng định: "Ngài có thể tin chắc là tôi sẽ làm mọi cách trong quyền hạn của tôi để bảo đảm rằng sự hy sinh to lớn của hai dân tộc Việt-Mỹ sẽ không bị uổng phí..." ["You may be certain that I will do all in my power to insure that the enormous sacrifice of the Vietnamese and American peoples do not come nothing."] Đây là những lời tâm huyết, dựa trên xương máu mà quân đội Mỹ-Việt đã đổ trên chiến trường. Đó là một đề tài mà Nixon sẽ nhắc đi nhắc lại trong những thư từ tiếp tục trao đổi với ông Thiệu.

Vận động với ông Andrei Gromyko.
Chiến lược mới của Hoa Kỳ gồm ba mũi: Hòa hoãn với Liên Xô, khai thác những mâu thuẫn Nga-Hoa, và bình thường hóa quan hệ với Trung Hoa. Bởi vậy, đang khi lôi kéo Trung Hoa vào một quan hệ có tính cách xây dựng và rút lui khỏi chiến trường Việt Nam, Nixon cũng muốn nhờ sự giúp đỡ của Liên Xô để thuyết phục Bắc Việt.
Trong những ngày 20 tới 25 tháng 4, 1972, đang khi Quân Lực VNCH nỗ lực đẩy lui cuộc tấn công của quân đội Bắc Việt vào dịp Lễ Phục Sinh (Easter Offensive) - Mùa Hè Đỏ Lửa của miền Nam - thì ông cử Kissinger bí mật sang Moscow. Nixon đã chỉ thị Kissinger đòi cho bằng được một sự thỏa hiệp với Brezhnev về Việt Nam như một điều kiện tiên quyết để thảo luận về bất cứ vấn đề gì trong cuộc họp thượng đỉnh sắp tới. "Sẽ không có thỏa ước nào cho đến khi Moscow thuyết phục được Bắc Việt chấm dứt chiến tranh bằng thương thuyết."
Lệnh là như vậy nhưng Kissinger lại xin xỏ.
Trong các cuộc hội đàm mật với Brezhnev tại Dom Pryomov, nhà khách chính phủ trên đồi Lênin nhìn xuống sông Moscow, Kisinger lại không cứng rắn như chỉ thị của Tổng Thống mà lại nhờ cậy Nga Xô đề nghị với Bắc Việt một loạt nhượng bộ của Hoa Kỳ (sau này sẽ trở thành căn bản của Hiệp Định Paris tháng Giêng 1973). Kissinger nói với Brezhnev rằng Hoa Kỳ bằng lòng chấp nhận một cuộc ngưng bắn tại chỗ để đổi lấy việc Bắc Việt rút quân, nhưng chỉ rút những lực lượng vừa mới xâm nhập vào Miền Nam kể từ khi có cuộc tấn công bắt đầu ngày 31 tháng 3 (gạch dưới là do tác giả) còn những lực lượng nào đã xâm nhập vào Nam trước cuộc tấn công, ước lượng khoảng 200.000 người, sẽ có thể ở lại.
Đây là lần đầu tiên Hoa Kỳ đã minh thị thỏa thuận cho quân đội Bắc Việt ở lại Miền Nam. Vì trước đó, Hoa Kỳ chỉ nói tới đồng ý là Mỹ sẽ rút quân đơn phương chứ chưa nói rõ là quân đội Bắc Việt được quyền đóng ở lại. Thí dụ như cho tới ba tháng trước đó, ngày 25 tháng 1, trong kế họach Tám Điểm trước khi đi Bắc Kinh, Tổng Thống Nixon vẫn còn dùng lời lẽ mơ hồ nói về cuộc rút quân: Hoa Kỳ kêu gọi "các lực lượng ngọai nhập (hay 'nước ngoài'  foreign troops) rút khỏi Đông Dương". Từ ngữ "ngoại nhập" tuy là mơ hồ nhưng nó cũng có thể được giải thích là bao gồm cả quân đội Bắc Việt (nghĩa là từ bên ngoài xâm nhập vào Miền Nam Việt Nam).
Ngày 21 tháng 4, 1972, Kissinger nói với Brezhnev: "Chúng tôi có hai mục tiêu, thứ nhất là thể hiện một cuộc rút quân toàn bộ trong danh dự, và thứ hai là đặt để một khoảng thời gian giữa việc rút quân và tiến trình chính trị sau đó."
Như vậy, Hoa Kỳ lại gởi một thông điệp dứt khoát cho Hà Nội, lần này là qua ngả Moscow.
Sau chuyến đi này, Kissinger tháp tùng Nixon đi dự hội nghị thượng đỉnh ở Moscow. Trong dịp này, Kissinger tỏ ra rất cởi mở và đề cập tới một "tiến trình lịch sử" sẽ khai triển sau khi Mỹ rút quân. Ông hay thích dùng cụm từ "tiến trình lịch sử" hay "diễn biến" với ý nghĩa là để mặc cho người Việt Nam tự thương thảo với nhau theo nguyên tắc "dân tộc tự quyết" không có sự can thiệp của Mỹ.
Mời độc giả theo dõi tài liệu mới giải mật (2005) về cuộc đàm thoại giữa ông Kissinger và Ngoại trưởng Liên Xô Gromyko (15):


-issinger: "Người Việt miền Bắc là một dân tộc anh hùng và về bản thân rất quyến rũ. Mặc khác họ không muốn tin vào một tiến trình lịch sử. Họ muốn mọi việc đều được viết ra trên giấy trắng mực đen và ngay bây giờ... Tôi nghĩ rằng sự diễn biến tình hình còn quan trọng hơn là những sự thỏa hiệp. Nếu Bắc Việt khôn ngoan -tôi xin nói tình thật- thì giờ đây họ nên thỏa hiệp với chúng tôi và đừng tranh cãi từng chi tiết làm gì nữa, bởi vì một năm sau khi thỏa hiệp sẽ có một tình huống mới, một thực tế mới,... Nếu họ không muốn một... thỏa hiệp toàn diện, thì chúng ta hãy cứ thỏa thuận về một cuộc ngưng bắn, thỏa thuận về việc trao đổi tù binh, và chúng tôi sẽ rút hết quân, rồi để họ thương thảo với Miền Nam về một giải pháp chính trị. Khi đó chúng tôi sẽ cam đoan, ngoại trừ về kinh viện và quân viện, sẽ không nhứng tay vào nữa, chúng tôi sẽ giữ thái độ trung lập trong tiến trình lịch sử."
- Gromyko: "Đôi lúc cảm tưởng của tôi sau khi nghe Tổng Thống và Tiến sĩ Kissinger trình bày về lập trường chính thức của Hoa Kỳ là không thể để cho Việt Nam rơi vào tay một chính quyền Cộng sản hay Xã hội Chủ nghĩa. Điều này là một cái bóng che mờ những lời tuyên bố của các ngài. Có phải sự quan tâm chính yếu của các ngài chỉ là về tính cách của việc chính quyền hay không""
- Kissinger: "Đó là một câu hỏi hay, được đặt ra bởi những người biết suy luận. Điều chúng tôi muốn nói là chúng tôi sẽ không rút lui theo một cung cách để bào đảm cho Cộng sản chiến thắng. Tuy nhiên, chúng tôi sẵn sàng rút lui để không loại trừ một cuộc chiến thắng của Cộng sản, mặc dầu không có bảo đảm. Tôi không biết sự phân biệt này có ý nghĩa gì đối với ông Ngoại trưởng hay không... ngài hiểu ý chúng tôi muốn nói gì chứ""
Điều mà Kissinger muốn nhắn gửi Hà Nội đã rõ ràng: không bảo đảm nhưng cũng không loại trừ một cuộc chiến thắng của Hà Nội.
Đạo diễn những bước để quân đội Bắc Việt tiến vào Sàigòn.
Cũng theo tài liệu mới giải mật, khi đi Moscow về, trong hai ngày 21 và 22 tháng 6, 1972, Kissinger lại đi Bắc Kinh gặp Chu Ân Lai để nói rõ hơn về chính sách Hoa Kỳ đối với Miền Nam. (16)

* Ngày 21 tháng 6, 1972: Chỉ cần một thời gian vừa đủ:
Ông Kissinger nói với ông Chu:
"Tôi tin rằng nếu có một khoảng thời gian vừa đủ giữa lúc chúng tôi rút quân và những gì xẩy ra sau đó thì vấn đề gần như chắc chắn có thể khoanh gọn như chuyện nội bộ của Đông Dương. Điều quan trọng là phải có một khoảng thời gian hợp lý giữa thỏa hiệp ngưng bắn và một cơ hội hữu lý để thương thảo chính trị...
Lý luận của tôi là chúng tôi muốn đặt ra một khoảng thời gian giữa kết cuộc quân sự và kết cuộc chính trị. Không ai có thể tưởng tượng được rằng lịch sử sẽ kết thúc ở bán đảo Đông Dương với chỉ một cuộc ngưng bắn."

* Ngày 22 tháng 6, 1972:
Ba bước đi.
Ngay hôm sau, để đánh tan mọi nghi ngờ, Kissinger đã phác thảo một kịch bản theo đó Bắc Việt có thể toàn thắng. Mặc dầu Hoa Kỳ không thể tự mình làm cho điều ấy xẩy ra, nhưng ông nói không úp mở (giải mật ngày 26 tháng 5, 2006):
"Nếu do kết quả của diễn biến lịch sử mà chuyện đó xẩy ra trong một khoảng thời gian thì nếu chúng tôi sống được với chính phủ Cộng sản ở Trung Quốc, chúng tôi cũng có thể chấp nhận như thế ở Đông Dương."
Ông cũng nhắn qua ông Chu rằng Hoa Kỳ tôn trọng Hà Nội như một "thực thể thường trực" (permanent entity) và có thể là một "thực thể mạnh nhất" trong vùng. Ông thêm: "Và chúng tôi không có ý tiêu diệt hay thậm chí đánh bại họ."
Khi ông Chu hỏi vặn thêm cho rõ hơn, Kissinger thừa nhận rằng Mỹ có thể chấp nhận cho Cộng sản tiếm quyền bằng võ lực nếu điều này xẩy ra một thời gian khá lâu sau khi Mỹ đã rút lui:
"Nếu nội chiến xẩy ra một tháng sau khi có hiệp ước hòa bình để Mỹ rút quân và trao đổi tù binh thì Hoa Thịnh Đốn có lẽ sẽ coi đó là một mưu mẹo và sẽ quay trở lại...
Mặc khác, nếu Bắc Việt nghiêm chỉnh thương thảo với Nam Việt Nam và nếu sau một thời gian lâu dài chuyện đó xẩy ra sau khi chúng tôi đã không còn can dự nữa thì theo xét đoán của cá nhân tôi, có rất ít khả năng chúng tôi sẽ quay trở lại, rất ít khả năng."
Như vậy, kịch bản này có ba giai đoạn:
1- Ký kết một hiệp định để Hoa Kỳ triệt thoái trong danh dự;
2- Tôn trọng một khoảng thời gian giữa triệt thoái và sự sụp đổ sẽ xẩy ra (thời gian này phải   coi cho được   chứ không phải là một tháng); và sau đó,
3- Mỹ có thể chấp nhận một chính quyền Cộng sản ở Sàigòn.

* Cứ đổ cho Miền Nam bất lực là xong chuyện.
Tài liệu mới được giải mật vào tháng 6, 2006 cho ta thấy phần nào cách thức Kissinger đã dùng để thuyết phục Nixon vào màn chót trong thời gian mật đàm. Mời độc giả theo dõi cuộc đàm luận, tính toán giữa hai người tại Tòa Bạch Ốc ngày 3 tháng 8, 1972 (có ghi âm, xem bản in lại trong chương này):
- Nixon: [Nghe không rõ-các giọng nói trùng nhau] Cần phải có - nếu chúng ta có thể có những bảo đảm rằng họ không... anh biết đấy, xét về tiến trình chính sách ngoại giao, mặc dầu tôi muốn nói, anh phải - Henry, anh cũng phải biết rằng thắng cử là vô cùng quan trọng. Nó vô cùng quan trọng năm nay, nhưng liệu chúng ta có được một chính sách ngoại giao vững bền [nếu] một năm hay hai năm kể từ bây giờ Bắc Việt nuốt trọn Nam Việt" Đó đích thực là vấn đề.
- Kissinger: Nếu một hay hai năm kể từ bây giờ mà Bắc Việt nuốt trọn Nam Việt, chúng ta vẫn có một chính sách ngoại giao vững vàng nếu điều đó xem như là hậu quả của sự bất lực của Miền Nam. Nếu bây giờ mà chúng ta bán đứng (Miền Nam) ví dụ như trong vòng ba, bốn tháng, nếu như chúng ta đẩy ông Thiệu xuống - do chính bàn tay chúng ta -  tôi nghĩ rằng sẽ có (hậu quả và) - đến ngay bọn Tàu cũng không ưa như thế. Tôi muốn nói rằng tuy ngoài miệng họ vẫn nói là họ thích như thế.
- Nixon: Nhưng họ sẽ lo ngại.
- Kissinger: Ai cũng sẽ lo ngại điều đó. Và đối nội thì về lâu về dài, cái đó không có lợi cho mình bởi vì đối thủ của chúng ta sẽ nói rằng lẽ ra chúng ta đã phải làm chuyện đó từ ba năm trước.
- Nixon: Tôi hiểu.

* Rồi Việt Nam sẽ thành bãi hoang vu.
- Kissinger tiếp lời: "Vậy chúng ta phải tìm ra một công thức nào đó để làm cho yên bề mọi chuyện trong một hay hai năm, sau đó thì - một năm sau, thưa Tổng Thống, Việt Nam sẽ là một bãi hoang vu. Nếu chúng ta kết thúc được, ví dụ, trong tháng 10 này, thì đến tháng 1, 1974, chẳng ai cần đếch gì nữa." (xin lỗi độc giả nhưng phải dịch như vậy mới đúng tinh thần của câu nói: "So we got to find some formula that holds the thing together a year or two, after which - after a year, Mr President, Vietnam will be back water. If we settle ít, say, this October (1972), by January 74 no one will give a damn.")
- Nixon: "Chúng ta hãy hoàn toàn sắt máu trong chuyện này. Nếu đứng trên quan điểm trò chơi của chúng ta với Nga và Tàu mà xét vấn đề, trên quan điểm quản trị xứ sở này, tôi nghĩ rằng chúng ta có thể, theo ý tôi, làm hầu như bất cứ điều gì, nói cho ngay, để bắt ép ông Thiệu. Hầu như bất cứ điều gì. Tôi đã đi tới kết luận như thế. Anh biết tôi muốn nói gì rồi..."
Nixon nhắc đi nhắc lại câu "hầu như bất cứ điều gì" như vậy chắc có ý nói là nếu cần thì có thể sẽ đảo chính, dẹp cả ông Thiệu đi cho xong. Làm sao ta có thể dung hòa được những ngôn từ tàn bạo trong cuộc đàm thoại giữa hai người như thế này với những lời lẽ cương quyết thúc giục ông Thiệu "Chúng ta phải tin vào nhau hoàn toàn." trong suốt thời gian có mật đàm (xem chương 14).
Thấy Nixon cứ lo lắng về hậu quả bỏ rơi Miền Nam đối với uy tín của Hoa Kỳ, Kissinger đã thuyết phục thành công: "Chúng ta phải tìm ra một công thức nào đó để làm cho yên bề mọi chuyện trong một hay hai năm sau, sau đó thì... chẳng ai cần đếch gì nữa."
Vì sao" Vì lúc ấy "Việt Nam sẽ chỉ còn là một bãi hoang vu."
Thào nào sau một ngày ký tắt vào bản hiệp định Paris và về tới Washington, Đổng lý Văn phòng Tổng Thống là John Erlichman gặp Kissinger đứng trước cửa văn phòng Lincoln trong Tòa Bạch Cung nên có hỏi:
- "Theo ông, Miền Nam VN có thể tồn tại được bao lâu nữa."
- "Tôi nghĩ rằng nếu họ may mắn thì được một năm rưỡi." Kissinger đáp.
Bốn năm sau lúc hạ màn, Kissinger vẫn còn ngang nhiên viết trong hồi ký - có thể vì lúc ấy (1979) tất cả mọi chuyện còn đang ém nhẹm, chưa có gì được giải mật:
"Chúng tôi đã đi tìm không phải chỉ một khoảng thời gian trước khi sụp đổ, nhưng một nền hòa bình lâu dài và danh dự."
NGUYỄN TIẾN HƯNG
(trích sách mới “Tâm Tư Tổng Thống Thiệu” sắp phát hành)

Ghi chú:
(13) Richard Nixon, sđđ, trang 568-568
(14) Nguyễn Phú Đức, sđđ, trang 226
(15) Jeffrey Kimball, December 2003 Newsletter
http://www.shafr.org/newsletter/2003/december/kimball.htm, p.10
(16) Như trên
(17) Henry Kissinger, sđđ, trang 1470.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chuyến thăm Việt Nam hai ngày của Tổng Bí thư Đảng, Chủ tịch nước Cộng sản Trung Quốc, Tập Cận Bình đã để lại nhiều hệ lụy cho nhân dân Việt Nam hơn bao giờ hết. Bằng chứng này được thể hiện trong Tuyên bố chung ngày 13/12/2023 theo đó họ Tập thay quan điểm “cộng đồng chung vận mệnh” bằng “xây dựng Cộng đồng chia sẻ tương lai” cho hai nước...
Sự ra đi của nhà tư tưởng và thực hành xuất sắc về chính sách đối ngoại của Mỹ đánh dấu một kỷ nguyên kết thúc. Trong suốt sự nghiệp lâu dài và có ảnh hưởng phi thường của mình, Henry Kissinger đã xây dựng một di sản mà người Mỹ sẽ khôn ngoan chú ý trong kỷ nguyên mới của nền chính trị cường quốc và sự xáo trộn trong toàn cầu. Thật khó để tưởng tượng rằng thế giới mà không có Henry Kissinger, không chỉ đơn giản vì ông sống đến 100 tuổi, mà vì ông chiếm một vị trí có ảnh hưởng và đôi khi chế ngự trong chính sách đối ngoại và quan hệ quốc tế của Mỹ trong hơn nửa thế kỷ.
“Tham nhũng kinh tế” ở Việt Nam đã trở thành “quốc nạn”, nhưng “tham nhũng quyền lực” do chính đảng viên gây ra để thu tóm quyền cai trị mới khiến Đảng lo sợ. Đó là nội dung đang được phổ biến học tập để đề phòng và bảo vệ chế độ do Ban Nội chính Trung ương công bố...
“Trong năm 2023 còn nhiều vấn đề đáng lo ngại, gây bất an cho xã hội. Các tội phạm trên các lĩnh vực tiếp tục gia tăng toàn quốc xảy ra 48.100 vụ phạm tội và trật tự xã hội tăng 18%.”
Việt Nam đang thương lượng mua chiến đấu cơ F-16 của Mỹ để tăng cường bảo vệ an ninh trước đe dọa ngày một lên cao của Trung Quốc ở Biển Đông. Tin này được truyền miệng ở Hoa Thịnh Đốn, tiếp theo sau chuyến thăm Việt Nam 2 ngày 10-11 tháng 9/2023 của Tổng thống Joe Biden. Tuy nhiên, các viên chức thẩm quyền của đôi bên không tiết lộ số lượng F-16 mà Việt Nam có thể mua với giá 30 triệu dollars một chiếc...
Số năm tháng tôi nằm trong tù chắc ít hơn thời gian mà nhà thơ Nguyễn Chí Thiện ngồi trong nhà mét (W.C) và có lẽ cũng chỉ bằng thời gian ngủ trưa của nhà văn Vũ Thư Hiên, ở trại Bất Bạt, Sơn Tây. Bởi vậy, sau khi đọc tác phẩm Hỏa Lò và Đêm Giữa Ban Ngày của hai ông (rồi đọc thêm Chuyện Kể Năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn, Thung Lũng Tử Thần của Vũ Ánh, và Trại Kiên Giam của Nguyễn Chí Thiệp) thì tôi tự hứa là không bao giờ viết lách gì vể chuyện nhà tù, trại tù hay người tù nào cả.
Càng gần đến Đại hội đảng toàn quốc khóa XIV (2026-2031), đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) càng ra sức kiên định 4 nguyên tắc được coi là “có ý nghĩa sống còn đối với chế độ.”
Trời mưa thì buồn. Trời nắng thì vui. Mưa nhiều quá gây lụt lội, trở thành thảm cảnh. Nắng quá độ gây khô hạn, cháy mùa màng, gây đói khổ. Gọi là thiên tai. Có nghĩa thảm họa do trời gây ra. Hoặc chữ “thiên” đại diện cho thiên nhiên. Nhưng gần đây, vấn nạn khí hậu biến đổi, gây ra nhiều “thiên tai” có thể gọi lại là “thiên nhân tai,” vì con người góp phần lớn tạo ra khốn khổ cho nhau. “Thiên nhân tai,” nghe lạ mà có đúng không? Nguyên nhân chính gây ra biến đổi khí hậu là hiệu ứng nhà kính. Một số loại khí trong bầu khí quyển bao quanh trái đất hoạt động hơi giống như gương kính trong nhà kính, giữ nhiệt của mặt trời và ngăn nó trở lại không gian, gây ra hiện tượng nóng lên cho toàn cầu. Nhiều loại khí nhà kính này xuất hiện một cách tự nhiên, nhưng các hoạt động của con người đang làm tăng nồng độ của một số loại khí này trong khí quyển, cụ thể là: Cacbon dioxit (CO2), khí mê-tan, nitơ oxit, khí florua
Tuy lịch sử không nói đến, nhưng nếu chịu khó lục lọi đây đó, người ta sẽ tìm ra một giai thoại khá thú vị về việc bản Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam được Hồ Chí Minh soạn thảo và đọc trong buổi lễ trước công chúng tại vườn hoa Ba Đình (nay là Quảng trường Ba Đình) ngày 2 tháng 9 năm 1945. Theo tường thuật của nhà báo Hồng Hà trên báo Cứu Quốc của Việt Minh, ông Nguyễn Hữu Đang là người đọc chương trình buổi lễ và giới thiệu Chính phủ Lâm thời cùng chủ tịch Chính phủ đọc Tuyên ngôn Độc lập. Ông Nguyễn Hữu Đang là Trưởng ban Tổ chức Lễ đài, ông chính là người đứng trước micro giới thiệu: “Thưa đồng bào... Đây là Chủ tịch Chính phủ Lâm thời Hồ Chí Minh.” Nói xong, ông lùi lại, nhường micro cho Hồ Chí Minh.
Quán bún bò 199 là chỗ dựa tài chính vững chắc giúp ông Lâm Kim Hùng (66 tuổi, Đồng Nai) nuôi hàng chục sinh viên nghèo hiếu học. Quán của ông vừa là nơi ăn ở miễn phí vừa là nơi tạo công ăn việc làm cho các bạn kiếm thêm thu nhập…May mắn trong việc kinh doanh, quán bún bò mang lại nguồn thu nhập ổn định. Thế nhưng, vì sống một mình, nên khoảng lợi nhuận ấy quá dư giả so với cuộc sống bình thường của ông. Nhận thấy cứ để dành tiền mãi cũng chẳng được gì nên ông quyết định giúp đỡ cho những người có hoàn cảnh khó khăn.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.