Nhật Bản Tháng Tư, Hoa Đào và Cá Sống… (1)
Nguyễn Q.
Hình ảnh Nhật Bản.
(Phần 1, bài 2 kỳ)
May mắn làm sao, chỉ hơn một tuần trước khi đi thì cơ quan Khí Tượng và Du Lịch của Nhật khai mở mùa hoa đào . Đi coi hoa đào, dù đã nhắm chừng vào khoảng cuối tháng Ba tới đầu tháng Tư là lúc hoa nở, cũng chỉ trông vào chuyện rủi may của thời tiết. Đẹp đẽ, quý gíá như thế mà không tồn tại được lâu. Sớm một tuần có thể vẫn còn là nụ, trễ một tuần thì hoa lá đã xác xơ, nhất là khi không may có mưa gió thổi qua. Vì vậy mà hoa đào là biểu tượng của những người Samurai, để khắc vào chuôi kiếm của mình. Rực rỡ, hào hùng mà ngắn ngủi bất trắc. Ba năm trước, khi rời <"xml:namespace prefix = st1 ns = "urn:schemas-microsoft-com:office:smarttags" />
Đầu năm nay, có người Nhật làm cùng sở mách tin Singapore Airlines đang có chương trình đặc biệt đi Nhật. Nếu đi truớc tháng Ba chỉ có 1,250 đô-la gồm vé máy bay khứ hồi, năm đêm ở khách sạn Tokyo Hilton, đón đưa từ phi trường tới khách sạn và nửa ngày đi tour. Kể lại với mấy người bạn, cùng ham đi chơi và ăn uống như nhau, thế là gác chuyện thuế má qua một bên, khăn gói lên đường qua xứ Phù Tang coi hoa đào nở và ăn cá sống.
Năm đêm ở Tokyo Hilton không cần liên tục, có thể ở vài đêm, đi đâu đó rồi về ở lại họ cũng chịu nên tiện quá. Sẽ ở
Khách sạn Tokyo Hilton ở gần Shinjuku station có xe đưa rước mỗi hai mươi phút cho tới mười giờ tối, nhưng đi bộ thì chỉ chừng mười lăm phút. Shinjuku là một hub lớn nhất ở Nhật với khoảng 3 triệu người qua lại mỗi ngày. Đông đúc như thế mà lạ thay, không có cái vẻ hỗn độn, ồn ào như Hồng Kông. Nhà ga và phố xá sạch như lau, không thấy một cọng rác ngoài đường. Có một cái ly giấy trong túi quần mà suốt hơn cả tiếng đồng hồ đi quanh quẩn ở nhà ga và mười lăm phút đi bộ trở về khách sạn không tìm ra dược một giỏ rác nơi công cộng để bỏ vào! Có người kể rằng người Nhật khi thấy chút rác ngoài đường họ không ngần ngại lượm đem về nhà bỏ vào thùng rác của mình. Bực mình vì cái ly giấy trong túi, nhưng có ai muốn mình là người duy nhất xả rác ngoài đường!
Đi quanh tìm chỗ ăn tối, ngang qua một tiệm sushi có hai cô gái đứng trước cửa lảnh lót mời khách. Ghé vào xem thử, đây là môt tiệm sushi “bình dân” mà họ gọi là revolving sushi restaurant. Thực khách ngồi sát nhau quanh cái quầy chạy quanh không ngừng, hai ba người sushi chef đứng giữa liên tục đặt những dĩa sushi lên quầy. Khách muốn ăn thứ gì cứ lấy xuống, hay gọi riêng những thứ mình muốn mà không có trên quầy. Ăn xong chồng dĩa qua một bên để người hầu bàn đếm dĩa tính tiền theo màu của dĩa. Toro thứ thựợng hạng thì 500 yen, dĩa màu vàng. Scallop thì 350 yen, dĩa có những đường vân. Yellowtail thì 200 yen, dĩa màu xanh lục… Trước mỗi người đã để sẵn những hộp nhỏ đựng gừng và trà xanh, với dãy ly úp bên cạnh cái faucet thấp nước nóng để khách tự pha trà lấy cho mình.
Đời sống người Nhật chung chung bận rộn, tám chín giờ tối mới ra khỏi sở, ăn vội xong buổi tối còn lấy metro về nhà ngủ, hôm sau đi làm tiếp. Mấy ai có thể la cà ở mấy cái sushi bar như ở Mỹ, chỉ mười mấy ghế, sắp hàng hay ghi tên chờ chỗ cả hai tiếng đồng hồ, rôì thêm cả hai tiếng nữa cho bữa ăn. Revolving sushi restaurant nhanh thì có nhanh, nhưng không bằng cái thú ngồi ở sushi bar với vợ con hay bè bạn, ngưỡng mộ nhìn những người sushi chef trang trọng xoay trở, nâng niu cắt những miếng cá tươi. Rồi thong thả uống ly trà xanh, chai bia hay ly rượu chờ tới phiên mình order. Nếu ngồi gần con cái thì đây là cơ hội tra khảo mà không cần waterboarding rắc rối với pháp luật: học hành ra sao, lâu nay có còn liên lạc với con nầy con kia không, cái charge trong credit card tuần trước ở Marché Moderne là đi với ai … Rượu vào lời ra, dễ gì mà kín đáo trong một khung cảnh “thư giãn” như thế!
Mỗi dĩa sushi, một món nấu đưa ra cho khách là cả một công trình, vì thế thì khi ăn uống cũng cố từ tốn hơn, để không buồn lòng những người sushi chef. Tự hỏi những ông sushi chef có khổ tâm hay không khi nhìn thấy khách cắm cúi khuấy một dĩa wasabi với soy sauce, nhúng phần cơm của miếng sushi vào dĩa sauce tới ướt mẹp, như mình khổ tâm khi thấy người ta bỏ bắp cải với giá sống vào một tô bún bò Huế. Gắp một miếng sushi lên, trở ngược lại để chấm nhẹ phần cá vào dĩa soy sauce, đưa lên thoảng mùi thơm của cơm còn ấm, lẫn mùi chua chua của dấm…Rồi ăn vái lát gừng, uống vài ngụm trà xanh cho sạch miệng, chờ tới phiên mình lượt sau. Đi ra khỏi tiệm, tưởng mình ăn rất nhiều mà thật ra chẳng bao nhiêu, bụng dạ vẫn nhẹ nhàng. Có đôi lúc người hầu bàn tự dưng mang đến một dĩa mà mình không order, hỏi, họ cười trả lời đúng là không order nhưng có vị khách ngồi trong góc kia mời ông thử món mới ở tiệm nầy. Nhìn tới thì là một người bạn lâu năm không gặp. Thức ăn đã ngon lại có thêm tình bạn chân thành ấm áp bỗng ngon hơn bội phần!
Tiệm không nhận thẻ tín dụng, may mà tìm ra một chợ 7 Eleven ở góc đường có ATM. Sau nầy mới hiểu thêm là cho đến bây giờ các cơ sở kinh doanh ở đây vẫn chỉ muốn giao dịch bằng tiền mặt mà thôi. Trở lại tiệm, mấy người bạn ngồi chờ đang chuyện trò vui vẻ với cô bầu bàn bằng…tiếng Việt! Thì ra, đây là một cô sinh viên du học, làm việc ở tiệm nầy vào cuối tuần. Cô ốm yếu khẳng khiu, không đẹp, mũi không thon thả, nước da không mịn và sáng như hầu hết các cô gái Nhật thấy ngoài đường phố, nhưng bù lại có hàm răng đều đặn trắng tươi, chắc nhờ vậy mà người bạn cùng đi cùng nhận ra bà ra con.
Gặp người đồng hương ở xứ người cũng vui. Dù mới gặp lần đầu mà cứ tưởng là bà con thân thuộc, quen biết đã bao năm. Được cô chăm sóc chu đáo quá. Dĩa sushi ở trên quầy mới chạy hai vòng cô đã không cho ăn, nói thôi cái đó cũ rồi mấy cô chú đừng ăn, muốn gì cháu sẽ gọi họ làm ngay. Rồi cho biết những gì tươi mới trong ngày. Mình đòi hỏi quá đáng, chứ tìm đâu ra cá tươi như thế nầy, chắc mới mua hồi sáng từ chợ cá Tsukiji chỉ cách đây chưa tới nửa giờ metro. Gặp lúc thưa khách, cô hầu bàn ngồi xuống kể chuyện. Cô qua đây học tiếng Nhật đã ba năm, để trở về nước làm thông-dịch-viên. Cô được trợ cấp mỗi tháng tám trăm đô la, đủ sống. Tiền lương hai trăm đồng mỗi cuối tuần làm việc ở đây để dành riêng nuôi ngưòi em trai cũng qua đây học sửa xe. Hỏi cô kinh tế ở đây bây giờ khó khăn, người Nhật thất nghiệp quá trời, sao họ lại cho sinh viên du học làm việc, không sợ dành công việc của người bản xứ hay sao. Cô nói người Nhật tốt lắm, họ không phân biệt đối xử và giúp đỡ sinh viên du học tận tình. Cô nói thêm chút chuyện riêng tư, có bạn trai rồi nhưng có tiến tới đâu không còn tuỳ số mệnh.
Ham chuyện trò vui miệng, ăn uống xong nhìn những chồng dĩa bên cạnh đâm lo, không biết có đủ tiền mặt để trả không, nhưng ra quầy trả tiền thì chỉ có 4100 yen, chưa tới 45 đô-la cho bốn người, không thuế không tip. Quá rẻ, chỉ một phần ba so với những tiệm sushi quen biết ở quanh vùng Orange County, nói chi tới những tiệm sushi ở San Francisco, New York hay Boston. Nghĩ chắc là họ đếm lộn dĩa. Nhưng thôi, mình đâu biết tiếng Nhật để cãi nhau với họ về chuyện nầy, đâu có ích lợi chi!
Không phải gíá cả mọi thứ ở đây đều phải chăng như tiệm sushi nầy. Cách đây mấy căn có tiệm ăn trưng trong lồng kính một hộp cơm với bốn miếng lươn nướng đề giá 48 đô-la . Trong nhà ga Shinjuku là thưong xá Keio năm bảy tầng lầu, với hai tầng dưới cùng dành cho thức ăn. Tầng trệt bán cá, thịt và trái cây, có trái cantaloupe đế trong chiếc hộp gỗ đề giá gần 100 đô-la! Chuối gói từng trái trong giấy bóng kính, xuống giá mỗi đô-la một trái trước giờ đóng cửa và khách dành nhau mua. Ở tầng trên, có cả trăm căn bán thức ăn, từ sushi, cánh gà, bánh bao, điểm xẩm, xôi đậu hay xôi với chestnut, tới fine chocolate, trà xanh, bánh tây.. . Thấy gì cũng ngon, muốn mua, muốn thử. Có nhiều món có phần lạt lẽo không đậm đà như thức ăn Việt Nam, nhưng trình bày tuyệt mỹ. Người ta không chỉ ăn bằng miệng mà còn bằng mắt. Mua một hộp ăn trưa họ cũng gói lại rồi thắt nơ như quà Christmas. Cứ tưởng fơod court ở trong thương xá Westfields ở
***
Buổi sáng sau ngày tới
Trên đường về tạt ngang qua quán café Starbucks xinh xắn, kín đáo ở góc đường vừa mới mở cửa, rồi băng qua
Những cây hoa đào rực rỡ dưới nắng mai, hồng nhạt có, hồng đậm có, trắng có, có cây rũ xuống ẻo lả, có cây chỉ vài ba bông hoa nhỏ từ một thân cây trông rất cằn cỗi mà dũng mãnh. Hoa hồng đẹp mà đầy gai góc. Hoa mai của mình đẹp dịu dàng - xuân nầy em có về không, cành mai cố quận nở bông dịu dàng (Bùi Giáng) – nhưng hoa đào còn dịu dàng hơn. Thanh thoát, mượt mà và đằm thắm. Đẹp từ trên xuống dưới, từ một cánh hoa với chiếc lá non tới cả cành. Đẹp từ một cây đơn lẻ bên góc phố, trước cửa nhà, tới hàng hàng lớp lớp dọc bờ sông hay trong trong công viên. Dưới những cây đào rực rỡ nhất trong góc công viên, tội nghiệp biết bao nhiêu, lại là năm bảy tấm lều của những người homeless. Có nhiều người đã thức dậy quét dọn những tàn hoa chung quanh, vãi thức ăn cho chim. Có người còn ngủ vật vờ trên những chiếc ghế đá. Có ngưòi vừa bước ra khỏi lều, quần áo chỉnh tề như sắp đến sở. Chắc lại là một salaryman mất việc, rồi mất cả gia đình vợ con.
Dưới bề nỗi của xã hội kỷ cương không thiếu những khó khăn nghiệt ngã con người phải trả. Khủng hoảng của giới trẻ vì mất định hướng. Nhiều khách sạn nhỏ từ chối cho những người trẻ thuê phòng ở một mình, sợ họ tự tử rồi đổ nợ. Thời buổi lifetime employment đã qua lâu lắm rồi. Người ta kể có người mất việc nhưng cố giấu vợ con và hàng xóm, hằng ngày vẫn xách cặp ra đi từ sáng sớm tinh sương, la cà ở đâu đó suốt ngày đợi đến tối mịt mới về, cho đến khi người vợ thấy công ty chồng mình làm không chuyển lương vào trương mục ngân hàng của mình mới hay! Ở một công viên khác, có cả hằng trăm căn lều của những người homeless. Họ ở trong lều suốt ngày vì không muốn ai nhận ra mình, đợi tối đến mới ra lấy nước và tìm thức ăn.
Có lần, tờ Wall Street Journal kể rằng người đàn ông Nhật thường gọi điện thoại về báo tin cho vợ biết nếu cần về nhà ngay sau khi tan sở. Mới đọc, nghĩ thì tan sở về nhà ngay có chi trễ nải mà phải báo tin, nhưng không phải thế mà ngược lại, gọi để người vợ có thì giờ “chuẩn bị”, “dàn xếp” với hàng xóm. Người vợ không muốn hàng xóm thấy chồng mình về nhà sớm, như thế chứng tỏ người chồng không phải là asset của công ty, làm người vợ phải mất mặt!
***
Sau hai ngày ở
Nhưng tranh đua với
Buổi sáng sớm lấy metro đi chợ cá Tsukiji. Nhìn bản đồ metro chóng cả mặt, chằng chịt gấp bội lần những hệ thống metro ở
Có quá nhiều sách vở, bài viết về chợ cá nổi tiếng nầy, nhưng có đến nơi, đi quanh, mới thấy nó khủng khiếp như thế nào. Người ta nói bất cứ thứ gì lội trong biển, ở bất cứ đâu trên thế giới, đều có thể tìm thấy ở đây, nhưng “thổ sản” là bluefin tuna. Tháng giêng năm nay, một con bluefin tuna đã bán đấu giá kỷ lục được 20.2 triệu yen, tính ra khoảng 400 đô-la một pound! Mấy tháng trước đây chợ nầy cấm cửa du khách, nay vừa mới cho mở lại. Họ than phiền nhiều du khách không những không behave, không tôn trọng phong tục tập quán của người Nhật mà còn làm cản trở công việc mua bán của họ. Có nữ du khách còn ăn mặc hở hang chạy xe vòng vòng quanh chợ cá để ồn ào phô trương…
Mới hơn chín giờ sáng mà các tiệm sushi quanh chợ cá đã có người sắp hàng vào ăn. Các tiệm sushi ở đây dĩ nhiên là phải ngon - ở đâu có thể tìm ra cá tươi hơn - và sushi chef phải giỏi vì là nơi ăn sáng cho những người sushi chef khác ở khắp nơi về đây mua cá mỗi ngày. Ăn cá sống vào lúc chín giờ sáng" Thì cũng như phở, hủ tiếu hay bún bò Huế của mình thôi, sáng, trưa, chiều tối, lúc nào cũng ngon cả. Một tô sushi rice, mùi gạo thơm lẫn với mùi dấm chua nhẹ nhàng trong buổi sáng sớm, với năm bảy miếng tuna đỏ tươi như hổ phách nằm lên trên, khoảng 13 đô-la. Đang định gọi thêm một dĩa sashimi, với scallop, red snapper và salmon để chia nhau thì người bạn đã có dịp đến đây rồi nói thôi, để bụng ra phía ngoài mặt đường ăn thử một tô mì đứng thịt heo trước khi xuống metro đi tới Ueno Park coi hoa đào.
Đang bị đoàn người cuốn hút kéo đi, bỗng nghe có tiếng Việt
(Còn tiếp kỳ 2)