Hôm nay,  

Người Về Từ Iraq

06/04/200800:00:00(Xem: 8352)

Đại tướng David Petraeus sẽ đi vào một chiến trường khác, tại Hoa Kỳ...
Thứ Ba này, tư lệnh chiến trường Iraq là Đại tướng David H. Petraeus, và vị tương nhiệm dân sự là Đại sứ Ryan Crocker tại Baghdad, sẽ lại ra điều trần trước Quốc hội Hoa Kỳ về tình hình Iraq sau lần điều trần trước, vào hai ngày 10-11 tháng Chín năm ngoái.

Trong lần điều trần trước, viên tướng có chiến công và uy tín của Quân lực Hoa Kỳ bị một số dân cử phản chiến trong Quốc hội nhục mạ, rằng bản tường trình của ông là do Tòa Bạch Cung soạn trước - hàm ý rằng ông là công cụ chính trị cho Hành pháp - hoặc tràn đầy chi tiết chỉ đáng tin cho những người cả tin - lập luận của Nghị sĩ Hillary Clinton. Và tổ chức phản chiến do nhiều tỷ phú Mỹ bỏ tiền tài trợ là Moveon.org còn đăng cả trang quảng cáo trên tờ New York Time ngày mùng 10 tháng Chín với nội dung chơi chữ nhằm phỉ báng ông là "bội phản Hoa Kỳ".

Đấy là cái giá phải trả cho nền dân chủ.
Trong một xứ độc tài, các tướng cầm quân khỏi cần giải trình với quốc dân về chiến trường, như Chechnya tại Nga; hay diệt trừ phiến loạn ở Tân Cương tại Trung Quốc; hoặc về chiến trường Cambốt như tại Việt Nam, gần 30 năm về trước. Hiểu như vậy, ta không nên sốt ruột cho một sĩ quan hữu trách như Tướng Petraeus.
Ông là người dày kinh nghiệm tác chiến từ những ngày đầu tại Iraq khi là Tư lệnh Sư đoàn Không kỵ 101 và góp phần bình định Mosul. Sau khi mãn khoá trường Võ bị West Point năm 1974 và phục vụ quân đội, ông còn tốt nghiệp Cao học về Chính sách Công quyền rồi Tiến sĩ về Bang giao Quốc tế từ hai chục năm trước tại một Đại học có uy tín là Princeton. David Petreaus là người am hiểu cả hậu phương lẫn chiến trường.

Ngoài chiến trường, tại Iraq, ông phải đối diện với một thực tế rối bù.
Đó là ba sắc tộc và hệ phái tôn giáo Kurd, Sunni và Shia đang tranh thắng trong tương lai Iraq. Bên dưới là tàn tư al-Qaeda và các nhóm khủng bố ngoại nhập. Đằng sau là Iran với khả năng sách động và yểm trợ mọi lực lượng bạo động - không chỉ phe Shia trong Chính quyền Baghdad của Thủ tướng Nuri al-Malaki mà còn có Thượng hội đồng Islamic Supreme Council of Iraq - ISCI - của lãnh tụ Abdel Azia al-Hakim - hay nhóm "dân quân" võ trang Mahdi Army của giáo sĩ Muqtada al-Sadr, người đang... ngồi tu tại Iran. 

Tại hậu phương, ông sẽ rơi vào sóng gió bầu cử của nước Mỹ và bị tấn công từ đa số đảng Dân chủ và cả hai ứng viên Dân chủ Hillary Clinon và Barack Obama trong khi vẫn phải chứng minh rằng ông là một sĩ quan đang bảo vệ Hoa Kỳ chứ chẳng tranh cử gì cho Nghị sĩ John McCain hoặc bênh vực Chính quyền Bush.

Trách nhiệm nào là nặng hơn, với kẻ thù trước mặt hay các đại diện quốc dân ở nhà"
Và ông lâm trận khi ý thức được rất rõ, rằng trọng tài sẽ sẵn sàng thổi còi tuyên bố là trận tuyến Iraq đã ngã ngũ, Hoa Kỳ đã thua, và chiến lược dồn quân đánh tới của Tổng thống Bush do ông thi hành từ năm ngoái không đạt kết quả dứt khoát. Trọng tài ấy chính là truyền thông Hoa Kỳ. Đây là một tái diễn của trận Mậu Thân 1968 tại Việt Nam, trên chính trường Mỹ.

Người Mỹ nói chung có sự hiểu biết khá mỏng về lịch sử và văn hoá thế giới - không phải lỗi của họ. Nếu có là do hệ thống giáo dục nông cạn của Hoa Kỳ về thiên hạ sự bên ngoài nước Mỹ. Người Mỹ thường hay đổi ý theo tinh thần thực dụng truyền thống của họ và tới nay vẫn thấy sự thực tiễn ấy là ưu điểm. Từ thời lập quốc của Mỹ, thế giới đã trải qua bao cuộc chiến tranh mà nước Mỹ vẫn an toàn trên một hải đảo bát ngát, vì được bảo vệ bởi hai đại dương rộng lớn và hai lân bang chưa khi nào là một đe dọa cho Hoa Kỳ là Canada và Mexico.

Lần đầu tiên mà lục địa Mỹ bị tấn công trong lịch sử là vụ khủng bố 9-11 năm 2001, nên cách ứng xử của họ cũng có những yếu tố độc đáo bất ngờ, "có ý nghĩa lịch sử".
Vấn đề chính của xã hội Mỹ là người dân vẫn nhìn vào cuộc chiến mới với nhãn quan cũ, theo truyền thống cũ. Đó là truyền thống thiếu kiên nhẫn khi thấy chiến tranh kéo dài.

Với tâm lý của quảng đại quần chúng, quá bốn năm là một thời hạn quá dài. Với tâm lý của giới chính trị, khi dân Mỹ hết kiên nhẫn thì họ phải chuyển hướng, tráo trở và đảo ngược lập trường cũng được, miễn là thắng cử.

Tâm lý này được thấy từ cuộc Nội chiến và phe Bắc quân đã thắng bất ngờ trước khi các chính khách kéo cờ hàng - và Abraham Lincoln trở thành Tổng thống bại trận - nhờ các chiến dịch thành công của các Tướng Sheridan và Sherman vào mùa Thu năm 1864. Ngay từ trong giả phả Hoa Kỳ, ấn tượng tại hậu phương có góp phần thắng bại nơi tiền tuyến.

Thế chiến II cũng không khác, Hoa Kỳ bị chật vật trong suốt ba năm đầu cho tới khi đảo ngược được tình hình từ năm 1943 và nhất là từ năm 1944. Nếu cuộc đổ bộ ngày sáu tháng Sáu 1944 tại Normandie để giải phóng Tây Âu mà được trực tiếp truyền hình về hậu phương thì các tướng cầm quân đã bị lột lon tại chỗ, và phân nửa dân Pháp sẽ nói tiếng Đức.

Mươi năm sau, Tổng thống Harry Truman của đảng Dân chủ không dám ra tái tranh cử khi tỷ lệ ủng hộ sụt tới 22% (thấp hơn ông Bush hiện nay chừng 13%!) vì chiến tranh Cao Ly cù cưa không dứt, thủ đô Hán Thành của Nam Hàn đổi chủ bốn lần! Năm 1950, dân Mỹ ủng hộ quyết định tham chiến của ông khi Trung Quốc tung ra chiến dịch biển người để tràn xuống vĩ tuyến 38 của Nam Hàn, năm 1953. Họ coi ông là Tổng thống bất tài!

Khi lên nhậm chức Tổng thống, Dwight Eisenhower không thay đổi mục tiêu hay chiến lược trên chiến trường Cao Ly, nhưng vẫn đạt được kết quả là hiệp định ngưng bắn và bảo vệ được Nam Hàn cho tới ngày nay. Nam Hàn trở thành cường quốc kinh tế thứ 11 của thế giới, và một trong những xứ dân chủ nhất, dù vẫn bị Bắc Hàn Cộng sản đe doạ.

Ngày nay, lịch sử Hoa Kỳ ca ngợi Harry Truman là một Tổng thống có tài và có công bày ra chiến lược be bờ cộng sản, để Ronald Reagan dứt điểm gần nửa thế kỷ sau. Nhưng lá phiếu của các sử gia thường không nhiều, và quá trễ. Cử tri Hoa Kỳ thuộc loại dốt sử có hạng so sánh với người dân các quốc gia đã từng trả giá rất đắt cho chiến tranh và ngoiạ xâm!

Khi chuẩn bị can thiệp mạnh vào Việt Nam, từ năm 1964, Tổng thống Lyndon Johnson được sự ủng hộ của 98 trong 100 Nghị sĩ và tất cả 435 Dân biểu tại Hạ viện. Chưa đầy bốn năm sau, dư luận xoay chiều theo cách tường thuật hời hợt và sai lạc của truyền thông sau trận Mậu Thân 1968. Johnson tuyệt vọng trước sự đảo ngược lập trường của đảng Dân chủ của mình, và như Truman, đành rút lui không ra tái tranh cử. Bốn chục năm sau, lịch sử thấy rằng hơn hẳn John Kennedy trong ngàn ngày tại chức, Johnson là người đóng góp nhiều nhất cho xã hội và dân quyền Hoa Kỳ, nhưng bị ông vẫn bị đại họa vì  vụ Việt Nam mà ông thừa hưởng từ Kennedy.

Nếu Hoa Kỳ không đổi ý và biết rút tỉa bài học đích thực của trận Mậu Thân, có khi miền Nam không bị chiến dịch Đông Xuân 1972 của Cộng sản miền Bắc, và kết cuộc sẽ không thể là một tháng Tư đen 1975 cho dân Việt Nam và danh dự nước Mỹ.
Khốn nỗi, dân Mỹ không thể kiên nhẫn quá bốn năm!

Chúng ta trở về thực tại Iraq và vấn nạn của Tướng Petraeus.
Tháng 10 năm 2002, đại đa số tới ba phần tư của dân Mỹ đã ủng hộ chiến dịch Iraq. Ngay cả trong giả thuyết Mỹ phải ra quân một mình mà không đội mũ xanh của Liên hiệp quốc, hơn 70% dân Mỹ vẫn đồng ý. Tỷ lệ phản chiến không xoay chuyển trong mọi trường hợp chỉ ở khoảng 20-21% mà thôi. Sau khi Mỹ đã vào Iraq mà không tìm ra võ khí tàn sát hàng loạt WMD của chế độ Saddam Hussein - một sai lầm tình báo của Hoa Kỳ và đại đa số các nước trên thế giới, kể cả Liên hiệp quốc, Pháp, Đức và... nguyên Tổng thống Bill Clinton cùng đảng Dân chủ - đa số dân Mỹ vẫn hậu thuẫn cuộc chiến tại Iraq.

Tình hình chỉ xoay chuyển từ cuối năm 2006. Những tai tiếng không thể chấp nhận được về vụ ngược đãi tù binh tại Abu Graibh và cuộc vận động dữ dội của phe phản chiến đã khiến các chính trị gia chột dạ. Như mọi khi, các chính khách đảng Dân chủ là những người đánh hơi bén nhạy nhất, và như mọi khi, một số chính khách Cộng hoà đổ theo và quay về đả kích Chính quyền Bush. Đấy là quy luật bình thường của chính trường Hoa Kỳ, khiến thế giới không tin vào nước Mỹ và kết luận - không sai - rằng thà làm đối thủ của Mỹ còn thọ hơn là đồng minh của Mỹ.

Điều bất ngờ cho mọi người, kể cả trong ban tham mưu đối ngoại và bộ máy chiến tranh Hoa Kỳ, là George W. Bush lại có phản ứng khác.
Lạc lõng và cô đơn, ông nhìn chuyện Iraq trong toàn cảnh của cuộc chiến chống khủng bố Hồi giáo toàn cầu. Và kết luận rằng nếu tháo chạy khỏi Iraq thì lợi bất cập hại. Trên cùng một cục diện, ông rút tỉa bài học khác. Sau khi trình bày sự thể với lãnh đạo Quốc hội thuộc cả hai đảng rồi thấy rằng họ không chấp nhận tình trạng bất phân thắng bại kéo dài như vậy và đề nghị rút quân, ông đề nghị giải pháp trái ngược: dồn quân đánh tới cho đến khi tình hình chính trị khả quan hơn thì mới kéo các đơn vị tác chiến về.

Mục tiêu vẫn là tạo điều kiện cho Iraq trở thành một quốc gia ổn định và đồng minh của Mỹ tại Trung Đông trong trận chiến trường kỳ chống quân khủng bố.
Điều may cho ông, và cả Nghị sĩ McCain, là Đại tướng Petraeus cũng thấy như vậy và nhận lãnh trách nhiệm hoàn thành mục tiêu đó. Sáu tháng sau khi các lữ đoàn tác chiến của Mỹ được tăng phái vào Iraq, Petraeus đã tường trình trước Quốc hội lần đầu, với một lượng định còn gây hồ nghi cho thiên hạ: chiến lược dồn quân đánh tới đã có kết quả khả quan và số tổn thất của Mỹ, lẫn dân chúng Iraq đã giảm dần. Đó là lần điều trần tháng Chín.

Lần này, ông sẽ khó ăn khó nói hơn. Vì Hoa Kỳ có thể đang thắng thế và Iraq có hy vọng tồn tại vững mạnh hơn trước. Khó nói vì ông bị lôi vào một trận tuyến khác, trận tuyến chính trị trong một mùa bầu cử tại hậu phương. Từng lời nói của mình sẽ được suy diễn - hoặc xuyên tạc - theo tinh thần tranh cử!

Mọi cuộc chiến đều có nhiều giai đoạn thắng bại nhất định và trong một xã hội dân chủ, không thể cấm người dân điểm quân tính số và đo đếm lợi hại theo nhận thức có khi là hời hợt của họ. Nếu hiểu như vậy, trước khi dụng binh, lãnh đạo Hoa Kỳ phải cân nhắc kỹ để kết luận trước, là nên đánh nhanh rút lẹ trước khi quần chúng hết kiên nhẫn. Nếu không, phải giải thích tường tận và rõ ràng hơn cho dân chúng biết về từng lẽ lợi hại.
Tổng thống Bush bị chống đối không vì ông đã cương cường nhấn tới mà vì ban tham mưu của ông không biết giải thích toàn bộ vấn đề và ý nghĩa chính trị của từng thắng bại quân sự ngoài chiến trường.

May cho nước Mỹ là ông không tháo chạy. May cho ông Bush là Quân lực Mỹ đã cố gắng chiến đấu trong hoàn cảnh hoang mang tại hậu phương và có một vị tướng như David H. Petraeus. Sau này, may ra lịch sử sẽ khoan dung hơn với ông, như đã xét lại công trạng và thành tích của Harry Truman.

Trong tinh thần ấy, ta sẽ theo dõi cuộc điều trần tuần này của Tướng Petreaus. Và không quên cách tường thuật của truyền thông Hoa Kỳ.
Đấy cũng là một bài học của trận Mậu Thân 68.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chỉ ba tháng sau khi Việt Nam nâng cấp quan hệ với Mỹ lên cấp cao nhất trong hệ thống phân cấp ngoại giao trong chuyến thăm của Tổng thống Biden, người ta thấy Chủ tịch Tập Cận Bình của Trung Quốc đã trở thành nhà lãnh đạo thế giới mới nhất tăng cường quan hệ với Việt Nam với chuyến thăm Hà Nội trong tuần này...
Chuyến thăm Việt Nam hai ngày của Tổng Bí thư Đảng, Chủ tịch nước Cộng sản Trung Quốc, Tập Cận Bình đã để lại nhiều hệ lụy cho nhân dân Việt Nam hơn bao giờ hết. Bằng chứng này được thể hiện trong Tuyên bố chung ngày 13/12/2023 theo đó họ Tập thay quan điểm “cộng đồng chung vận mệnh” bằng “xây dựng Cộng đồng chia sẻ tương lai” cho hai nước...
Sự ra đi của nhà tư tưởng và thực hành xuất sắc về chính sách đối ngoại của Mỹ đánh dấu một kỷ nguyên kết thúc. Trong suốt sự nghiệp lâu dài và có ảnh hưởng phi thường của mình, Henry Kissinger đã xây dựng một di sản mà người Mỹ sẽ khôn ngoan chú ý trong kỷ nguyên mới của nền chính trị cường quốc và sự xáo trộn trong toàn cầu. Thật khó để tưởng tượng rằng thế giới mà không có Henry Kissinger, không chỉ đơn giản vì ông sống đến 100 tuổi, mà vì ông chiếm một vị trí có ảnh hưởng và đôi khi chế ngự trong chính sách đối ngoại và quan hệ quốc tế của Mỹ trong hơn nửa thế kỷ.
“Tham nhũng kinh tế” ở Việt Nam đã trở thành “quốc nạn”, nhưng “tham nhũng quyền lực” do chính đảng viên gây ra để thu tóm quyền cai trị mới khiến Đảng lo sợ. Đó là nội dung đang được phổ biến học tập để đề phòng và bảo vệ chế độ do Ban Nội chính Trung ương công bố...
“Trong năm 2023 còn nhiều vấn đề đáng lo ngại, gây bất an cho xã hội. Các tội phạm trên các lĩnh vực tiếp tục gia tăng toàn quốc xảy ra 48.100 vụ phạm tội và trật tự xã hội tăng 18%.”
Việt Nam đang thương lượng mua chiến đấu cơ F-16 của Mỹ để tăng cường bảo vệ an ninh trước đe dọa ngày một lên cao của Trung Quốc ở Biển Đông. Tin này được truyền miệng ở Hoa Thịnh Đốn, tiếp theo sau chuyến thăm Việt Nam 2 ngày 10-11 tháng 9/2023 của Tổng thống Joe Biden. Tuy nhiên, các viên chức thẩm quyền của đôi bên không tiết lộ số lượng F-16 mà Việt Nam có thể mua với giá 30 triệu dollars một chiếc...
Số năm tháng tôi nằm trong tù chắc ít hơn thời gian mà nhà thơ Nguyễn Chí Thiện ngồi trong nhà mét (W.C) và có lẽ cũng chỉ bằng thời gian ngủ trưa của nhà văn Vũ Thư Hiên, ở trại Bất Bạt, Sơn Tây. Bởi vậy, sau khi đọc tác phẩm Hỏa Lò và Đêm Giữa Ban Ngày của hai ông (rồi đọc thêm Chuyện Kể Năm 2000 của Bùi Ngọc Tấn, Thung Lũng Tử Thần của Vũ Ánh, và Trại Kiên Giam của Nguyễn Chí Thiệp) thì tôi tự hứa là không bao giờ viết lách gì vể chuyện nhà tù, trại tù hay người tù nào cả.
Càng gần đến Đại hội đảng toàn quốc khóa XIV (2026-2031), đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) càng ra sức kiên định 4 nguyên tắc được coi là “có ý nghĩa sống còn đối với chế độ.”
Trời mưa thì buồn. Trời nắng thì vui. Mưa nhiều quá gây lụt lội, trở thành thảm cảnh. Nắng quá độ gây khô hạn, cháy mùa màng, gây đói khổ. Gọi là thiên tai. Có nghĩa thảm họa do trời gây ra. Hoặc chữ “thiên” đại diện cho thiên nhiên. Nhưng gần đây, vấn nạn khí hậu biến đổi, gây ra nhiều “thiên tai” có thể gọi lại là “thiên nhân tai,” vì con người góp phần lớn tạo ra khốn khổ cho nhau. “Thiên nhân tai,” nghe lạ mà có đúng không? Nguyên nhân chính gây ra biến đổi khí hậu là hiệu ứng nhà kính. Một số loại khí trong bầu khí quyển bao quanh trái đất hoạt động hơi giống như gương kính trong nhà kính, giữ nhiệt của mặt trời và ngăn nó trở lại không gian, gây ra hiện tượng nóng lên cho toàn cầu. Nhiều loại khí nhà kính này xuất hiện một cách tự nhiên, nhưng các hoạt động của con người đang làm tăng nồng độ của một số loại khí này trong khí quyển, cụ thể là: Cacbon dioxit (CO2), khí mê-tan, nitơ oxit, khí florua
Tuy lịch sử không nói đến, nhưng nếu chịu khó lục lọi đây đó, người ta sẽ tìm ra một giai thoại khá thú vị về việc bản Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam được Hồ Chí Minh soạn thảo và đọc trong buổi lễ trước công chúng tại vườn hoa Ba Đình (nay là Quảng trường Ba Đình) ngày 2 tháng 9 năm 1945. Theo tường thuật của nhà báo Hồng Hà trên báo Cứu Quốc của Việt Minh, ông Nguyễn Hữu Đang là người đọc chương trình buổi lễ và giới thiệu Chính phủ Lâm thời cùng chủ tịch Chính phủ đọc Tuyên ngôn Độc lập. Ông Nguyễn Hữu Đang là Trưởng ban Tổ chức Lễ đài, ông chính là người đứng trước micro giới thiệu: “Thưa đồng bào... Đây là Chủ tịch Chính phủ Lâm thời Hồ Chí Minh.” Nói xong, ông lùi lại, nhường micro cho Hồ Chí Minh.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.