Hôm nay,  

Người Về Từ Iraq

06/04/200800:00:00(Xem: 8344)

Đại tướng David Petraeus sẽ đi vào một chiến trường khác, tại Hoa Kỳ...
Thứ Ba này, tư lệnh chiến trường Iraq là Đại tướng David H. Petraeus, và vị tương nhiệm dân sự là Đại sứ Ryan Crocker tại Baghdad, sẽ lại ra điều trần trước Quốc hội Hoa Kỳ về tình hình Iraq sau lần điều trần trước, vào hai ngày 10-11 tháng Chín năm ngoái.

Trong lần điều trần trước, viên tướng có chiến công và uy tín của Quân lực Hoa Kỳ bị một số dân cử phản chiến trong Quốc hội nhục mạ, rằng bản tường trình của ông là do Tòa Bạch Cung soạn trước - hàm ý rằng ông là công cụ chính trị cho Hành pháp - hoặc tràn đầy chi tiết chỉ đáng tin cho những người cả tin - lập luận của Nghị sĩ Hillary Clinton. Và tổ chức phản chiến do nhiều tỷ phú Mỹ bỏ tiền tài trợ là Moveon.org còn đăng cả trang quảng cáo trên tờ New York Time ngày mùng 10 tháng Chín với nội dung chơi chữ nhằm phỉ báng ông là "bội phản Hoa Kỳ".

Đấy là cái giá phải trả cho nền dân chủ.
Trong một xứ độc tài, các tướng cầm quân khỏi cần giải trình với quốc dân về chiến trường, như Chechnya tại Nga; hay diệt trừ phiến loạn ở Tân Cương tại Trung Quốc; hoặc về chiến trường Cambốt như tại Việt Nam, gần 30 năm về trước. Hiểu như vậy, ta không nên sốt ruột cho một sĩ quan hữu trách như Tướng Petraeus.
Ông là người dày kinh nghiệm tác chiến từ những ngày đầu tại Iraq khi là Tư lệnh Sư đoàn Không kỵ 101 và góp phần bình định Mosul. Sau khi mãn khoá trường Võ bị West Point năm 1974 và phục vụ quân đội, ông còn tốt nghiệp Cao học về Chính sách Công quyền rồi Tiến sĩ về Bang giao Quốc tế từ hai chục năm trước tại một Đại học có uy tín là Princeton. David Petreaus là người am hiểu cả hậu phương lẫn chiến trường.

Ngoài chiến trường, tại Iraq, ông phải đối diện với một thực tế rối bù.
Đó là ba sắc tộc và hệ phái tôn giáo Kurd, Sunni và Shia đang tranh thắng trong tương lai Iraq. Bên dưới là tàn tư al-Qaeda và các nhóm khủng bố ngoại nhập. Đằng sau là Iran với khả năng sách động và yểm trợ mọi lực lượng bạo động - không chỉ phe Shia trong Chính quyền Baghdad của Thủ tướng Nuri al-Malaki mà còn có Thượng hội đồng Islamic Supreme Council of Iraq - ISCI - của lãnh tụ Abdel Azia al-Hakim - hay nhóm "dân quân" võ trang Mahdi Army của giáo sĩ Muqtada al-Sadr, người đang... ngồi tu tại Iran. 

Tại hậu phương, ông sẽ rơi vào sóng gió bầu cử của nước Mỹ và bị tấn công từ đa số đảng Dân chủ và cả hai ứng viên Dân chủ Hillary Clinon và Barack Obama trong khi vẫn phải chứng minh rằng ông là một sĩ quan đang bảo vệ Hoa Kỳ chứ chẳng tranh cử gì cho Nghị sĩ John McCain hoặc bênh vực Chính quyền Bush.

Trách nhiệm nào là nặng hơn, với kẻ thù trước mặt hay các đại diện quốc dân ở nhà"
Và ông lâm trận khi ý thức được rất rõ, rằng trọng tài sẽ sẵn sàng thổi còi tuyên bố là trận tuyến Iraq đã ngã ngũ, Hoa Kỳ đã thua, và chiến lược dồn quân đánh tới của Tổng thống Bush do ông thi hành từ năm ngoái không đạt kết quả dứt khoát. Trọng tài ấy chính là truyền thông Hoa Kỳ. Đây là một tái diễn của trận Mậu Thân 1968 tại Việt Nam, trên chính trường Mỹ.

Người Mỹ nói chung có sự hiểu biết khá mỏng về lịch sử và văn hoá thế giới - không phải lỗi của họ. Nếu có là do hệ thống giáo dục nông cạn của Hoa Kỳ về thiên hạ sự bên ngoài nước Mỹ. Người Mỹ thường hay đổi ý theo tinh thần thực dụng truyền thống của họ và tới nay vẫn thấy sự thực tiễn ấy là ưu điểm. Từ thời lập quốc của Mỹ, thế giới đã trải qua bao cuộc chiến tranh mà nước Mỹ vẫn an toàn trên một hải đảo bát ngát, vì được bảo vệ bởi hai đại dương rộng lớn và hai lân bang chưa khi nào là một đe dọa cho Hoa Kỳ là Canada và Mexico.

Lần đầu tiên mà lục địa Mỹ bị tấn công trong lịch sử là vụ khủng bố 9-11 năm 2001, nên cách ứng xử của họ cũng có những yếu tố độc đáo bất ngờ, "có ý nghĩa lịch sử".
Vấn đề chính của xã hội Mỹ là người dân vẫn nhìn vào cuộc chiến mới với nhãn quan cũ, theo truyền thống cũ. Đó là truyền thống thiếu kiên nhẫn khi thấy chiến tranh kéo dài.

Với tâm lý của quảng đại quần chúng, quá bốn năm là một thời hạn quá dài. Với tâm lý của giới chính trị, khi dân Mỹ hết kiên nhẫn thì họ phải chuyển hướng, tráo trở và đảo ngược lập trường cũng được, miễn là thắng cử.

Tâm lý này được thấy từ cuộc Nội chiến và phe Bắc quân đã thắng bất ngờ trước khi các chính khách kéo cờ hàng - và Abraham Lincoln trở thành Tổng thống bại trận - nhờ các chiến dịch thành công của các Tướng Sheridan và Sherman vào mùa Thu năm 1864. Ngay từ trong giả phả Hoa Kỳ, ấn tượng tại hậu phương có góp phần thắng bại nơi tiền tuyến.

Thế chiến II cũng không khác, Hoa Kỳ bị chật vật trong suốt ba năm đầu cho tới khi đảo ngược được tình hình từ năm 1943 và nhất là từ năm 1944. Nếu cuộc đổ bộ ngày sáu tháng Sáu 1944 tại Normandie để giải phóng Tây Âu mà được trực tiếp truyền hình về hậu phương thì các tướng cầm quân đã bị lột lon tại chỗ, và phân nửa dân Pháp sẽ nói tiếng Đức.

Mươi năm sau, Tổng thống Harry Truman của đảng Dân chủ không dám ra tái tranh cử khi tỷ lệ ủng hộ sụt tới 22% (thấp hơn ông Bush hiện nay chừng 13%!) vì chiến tranh Cao Ly cù cưa không dứt, thủ đô Hán Thành của Nam Hàn đổi chủ bốn lần! Năm 1950, dân Mỹ ủng hộ quyết định tham chiến của ông khi Trung Quốc tung ra chiến dịch biển người để tràn xuống vĩ tuyến 38 của Nam Hàn, năm 1953. Họ coi ông là Tổng thống bất tài!

Khi lên nhậm chức Tổng thống, Dwight Eisenhower không thay đổi mục tiêu hay chiến lược trên chiến trường Cao Ly, nhưng vẫn đạt được kết quả là hiệp định ngưng bắn và bảo vệ được Nam Hàn cho tới ngày nay. Nam Hàn trở thành cường quốc kinh tế thứ 11 của thế giới, và một trong những xứ dân chủ nhất, dù vẫn bị Bắc Hàn Cộng sản đe doạ.

Ngày nay, lịch sử Hoa Kỳ ca ngợi Harry Truman là một Tổng thống có tài và có công bày ra chiến lược be bờ cộng sản, để Ronald Reagan dứt điểm gần nửa thế kỷ sau. Nhưng lá phiếu của các sử gia thường không nhiều, và quá trễ. Cử tri Hoa Kỳ thuộc loại dốt sử có hạng so sánh với người dân các quốc gia đã từng trả giá rất đắt cho chiến tranh và ngoiạ xâm!

Khi chuẩn bị can thiệp mạnh vào Việt Nam, từ năm 1964, Tổng thống Lyndon Johnson được sự ủng hộ của 98 trong 100 Nghị sĩ và tất cả 435 Dân biểu tại Hạ viện. Chưa đầy bốn năm sau, dư luận xoay chiều theo cách tường thuật hời hợt và sai lạc của truyền thông sau trận Mậu Thân 1968. Johnson tuyệt vọng trước sự đảo ngược lập trường của đảng Dân chủ của mình, và như Truman, đành rút lui không ra tái tranh cử. Bốn chục năm sau, lịch sử thấy rằng hơn hẳn John Kennedy trong ngàn ngày tại chức, Johnson là người đóng góp nhiều nhất cho xã hội và dân quyền Hoa Kỳ, nhưng bị ông vẫn bị đại họa vì  vụ Việt Nam mà ông thừa hưởng từ Kennedy.

Nếu Hoa Kỳ không đổi ý và biết rút tỉa bài học đích thực của trận Mậu Thân, có khi miền Nam không bị chiến dịch Đông Xuân 1972 của Cộng sản miền Bắc, và kết cuộc sẽ không thể là một tháng Tư đen 1975 cho dân Việt Nam và danh dự nước Mỹ.
Khốn nỗi, dân Mỹ không thể kiên nhẫn quá bốn năm!

Chúng ta trở về thực tại Iraq và vấn nạn của Tướng Petraeus.
Tháng 10 năm 2002, đại đa số tới ba phần tư của dân Mỹ đã ủng hộ chiến dịch Iraq. Ngay cả trong giả thuyết Mỹ phải ra quân một mình mà không đội mũ xanh của Liên hiệp quốc, hơn 70% dân Mỹ vẫn đồng ý. Tỷ lệ phản chiến không xoay chuyển trong mọi trường hợp chỉ ở khoảng 20-21% mà thôi. Sau khi Mỹ đã vào Iraq mà không tìm ra võ khí tàn sát hàng loạt WMD của chế độ Saddam Hussein - một sai lầm tình báo của Hoa Kỳ và đại đa số các nước trên thế giới, kể cả Liên hiệp quốc, Pháp, Đức và... nguyên Tổng thống Bill Clinton cùng đảng Dân chủ - đa số dân Mỹ vẫn hậu thuẫn cuộc chiến tại Iraq.

Tình hình chỉ xoay chuyển từ cuối năm 2006. Những tai tiếng không thể chấp nhận được về vụ ngược đãi tù binh tại Abu Graibh và cuộc vận động dữ dội của phe phản chiến đã khiến các chính trị gia chột dạ. Như mọi khi, các chính khách đảng Dân chủ là những người đánh hơi bén nhạy nhất, và như mọi khi, một số chính khách Cộng hoà đổ theo và quay về đả kích Chính quyền Bush. Đấy là quy luật bình thường của chính trường Hoa Kỳ, khiến thế giới không tin vào nước Mỹ và kết luận - không sai - rằng thà làm đối thủ của Mỹ còn thọ hơn là đồng minh của Mỹ.

Điều bất ngờ cho mọi người, kể cả trong ban tham mưu đối ngoại và bộ máy chiến tranh Hoa Kỳ, là George W. Bush lại có phản ứng khác.
Lạc lõng và cô đơn, ông nhìn chuyện Iraq trong toàn cảnh của cuộc chiến chống khủng bố Hồi giáo toàn cầu. Và kết luận rằng nếu tháo chạy khỏi Iraq thì lợi bất cập hại. Trên cùng một cục diện, ông rút tỉa bài học khác. Sau khi trình bày sự thể với lãnh đạo Quốc hội thuộc cả hai đảng rồi thấy rằng họ không chấp nhận tình trạng bất phân thắng bại kéo dài như vậy và đề nghị rút quân, ông đề nghị giải pháp trái ngược: dồn quân đánh tới cho đến khi tình hình chính trị khả quan hơn thì mới kéo các đơn vị tác chiến về.

Mục tiêu vẫn là tạo điều kiện cho Iraq trở thành một quốc gia ổn định và đồng minh của Mỹ tại Trung Đông trong trận chiến trường kỳ chống quân khủng bố.
Điều may cho ông, và cả Nghị sĩ McCain, là Đại tướng Petraeus cũng thấy như vậy và nhận lãnh trách nhiệm hoàn thành mục tiêu đó. Sáu tháng sau khi các lữ đoàn tác chiến của Mỹ được tăng phái vào Iraq, Petraeus đã tường trình trước Quốc hội lần đầu, với một lượng định còn gây hồ nghi cho thiên hạ: chiến lược dồn quân đánh tới đã có kết quả khả quan và số tổn thất của Mỹ, lẫn dân chúng Iraq đã giảm dần. Đó là lần điều trần tháng Chín.

Lần này, ông sẽ khó ăn khó nói hơn. Vì Hoa Kỳ có thể đang thắng thế và Iraq có hy vọng tồn tại vững mạnh hơn trước. Khó nói vì ông bị lôi vào một trận tuyến khác, trận tuyến chính trị trong một mùa bầu cử tại hậu phương. Từng lời nói của mình sẽ được suy diễn - hoặc xuyên tạc - theo tinh thần tranh cử!

Mọi cuộc chiến đều có nhiều giai đoạn thắng bại nhất định và trong một xã hội dân chủ, không thể cấm người dân điểm quân tính số và đo đếm lợi hại theo nhận thức có khi là hời hợt của họ. Nếu hiểu như vậy, trước khi dụng binh, lãnh đạo Hoa Kỳ phải cân nhắc kỹ để kết luận trước, là nên đánh nhanh rút lẹ trước khi quần chúng hết kiên nhẫn. Nếu không, phải giải thích tường tận và rõ ràng hơn cho dân chúng biết về từng lẽ lợi hại.
Tổng thống Bush bị chống đối không vì ông đã cương cường nhấn tới mà vì ban tham mưu của ông không biết giải thích toàn bộ vấn đề và ý nghĩa chính trị của từng thắng bại quân sự ngoài chiến trường.

May cho nước Mỹ là ông không tháo chạy. May cho ông Bush là Quân lực Mỹ đã cố gắng chiến đấu trong hoàn cảnh hoang mang tại hậu phương và có một vị tướng như David H. Petraeus. Sau này, may ra lịch sử sẽ khoan dung hơn với ông, như đã xét lại công trạng và thành tích của Harry Truman.

Trong tinh thần ấy, ta sẽ theo dõi cuộc điều trần tuần này của Tướng Petreaus. Và không quên cách tường thuật của truyền thông Hoa Kỳ.
Đấy cũng là một bài học của trận Mậu Thân 68.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Không phải “học” mà là bắt, là tóm đầu, là tống cổ vào nhà giam: khi cân bằng quyền lực ở Hà Nội xáo trộn với tiền chấn rung chuyển tận Amsterdam thì cái khẩu hiệu quen thuộc của Vladimir Lenin ngày nào cũng phải được cập nhật. Không còn “Học, học nữa, học mãi” mà, táo tợn hơn, hệ thống quyền lực đang giỡn mặt Lenin: “Bắt, bắt nữa, bắt mãi”.
Câu chuyện kể từ xa xưa, rất xa xưa, là từ thời đức Phật còn tại thế: Có một người Bà La Môn rất giầu có và rất quyền thế, ông thích đi săn bắn thú vật trong rừng hay chim muông trên trời. Một hôm đó, ông bắn được một con thiên nga to đẹp đang bay vi vút trong bầu trời cao xanh bát ngát thăm thẳm trên kia. Con thiên nga vô cùng đẹp bị trúng đạn, rơi xuống đất, đau đớn giẫy và chết. Ông liền chạy tới lượm thành quả của ông và xách xác con thiên nga lộng lẫy về cho gia nhân làm thịt, làm một bữa nhậu, có lẽ.
Dù đã từ trần từ lâu, Võ Văn Kiệt vẫn được người đời nhắc đến do một câu nói khá cận nhân tình: “Nhiều sự kiện khi nhắc lại, có hàng triệu người vui mà cũng có hàng triệu người buồn”. Tôi vốn tính hiếu chiến (và hiếu thắng) nên lại tâm đắc với ông T.T này bởi một câu nói khác: “Chúng tôi tự hào đã đánh thắng ba đế quốc to”. Dù chỉ ngắn gọn thế thôi nhưng cũng đủ cho người nghe hiểu rằng Việt Nam là một cường quốc, chứ “không phải dạng vừa” đâu đấy!
Lý do ông Thưởng, ngôi sao sáng mới 54 tuổi bị thanh trừng không được công khai. Tuy nhiên, theo báo cáo của Uỷ ban Kiểm tra Trung ương và các cơ quan chức năng, thì ông Võ Văn Thưởng “đã vi phạm Quy định về những điều đảng viên không được làm...
Cứ theo như lời của giáo sư Nguyễn Văn Lục thì T.T. Thích Trí Quang là tác giả của câu nói (“Cộng Sản nó giết mình hôm nay, mai nó mang vòng hoa đến phúng điếu!”) thượng dẫn. Tôi nghe mà bán tin bán nghi vì nếu sự thực đúng y như vậy thì hoa hòe ở Việt Nam phải trồng bao nhiêu mới đủ, hả Trời?
Đảng CSVN tự khoe là “ niềm tin hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc“của nhân dân, nhưng sau 94 năm có mặt trên đất nước, thực tế đã chứng minh đảng đã cướp mất tự do của dân tộc, và là lực cản của tiến bộ...
Khi Kim Dung gặp Ian Fleming cả hai đều hớn hở, tay bắt mặt mừng và hể hả mà rằng: “Chúng ta đã chia nhau độc giả của toàn thể thế giới”. Câu nói nghe tuy có hơi cường điệu (và hợm hĩnh) nhưng sự hỉ hả của họ không phải là không có lý do. Số lượng sách in và số tiền tác quyền hậu hĩ của hai ông, chắc chắn, vượt rất xa rất nhiều những cây viết lừng lẫy cùng thời. Ian Fleming đã qua đời vào năm 1964 nhưng James Bond vẫn sống mãi trong… sự nghiệp của giới làm phim và trong… lòng quần chúng. Tương tự, nhân vật trong chuyện kiếm hiệp của Kim Dung sẽ tiếp tục là những “chiếc bóng đậm màu” trong tâm tư của vô số con người, nhất là người Việt.
Trong tháng Hai vừa qua, cái chết đau thương, lẫm liệt của nhà đối kháng người Nga Alexei Navalny trong tù đã gây sầu thảm, phẫn nộ cho toàn cộng đồng tiến bộ nhân loại. Đối với người Việt Nam tiến bộ, nỗi đau lại càng sâu thêm khi trong ngày cuối cùng của tháng Hai, ngày 29, nhà cầm quyền độc tài Hà Nội bắt đi cùng lúc hai nhà đấu tranh kiên cường...
Ít lâu nay, vấn đề “bảo vệ an ninh quốc gia” được nói nhiều ở Việt Nam, nhưng có phải vì tổ quốc lâm nguy, hay đảng muốn được bảo vệ để tồn tại?
Xuất hiện gần đây trong chiến dịch tranh cử tổng thống, Donald Trump, ứng cử viên đảng Cộng hòa, đã lên tiếng đe dọa là sẽ không bảo vệ cho các đồng minh thuộc khối NATO trong trường hợp bị Nga tấn công. Ý kiến này đã dấy lên một cuộc tranh luận sôi nổi tại châu Âu, vì có liên quan đến việc răn đe Nga và ba kịch bản chính được đề cập đến khi Donald Trump trở lại Nhà Trắng vào năm 2025 là liệu Liên Âu có nên trang bị vũ khí hạt nhân chăng, Pháp có thể tích cực tham gia không và Đức nên có tác động nào.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.