Hôm nay,  

Bắc Hàn Noi Gương Việt Nam?

07/11/200700:00:00(Xem: 9150)

...thu hút tư bản và kỹ thuật của thế giới... vẫn duy trì được hệ thống chính trị độc đảng...

Trong chuyến thăm viếng Bắc Hàn vừa qua của Tổng bí thư Nông Đức Mạnh, dường như lãnh tụ Cộng sản Bắc Hàn có nêu ý kiến là Bắc Hàn có thể thử nghiệm mô thức kinh tế của Việt Nam. Diễn đàn Kinh tế đài RFA sẽ tìm hiểu về câu chuyện ly kỳ này trong cuộc trao đổi cùng kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa do Việt Long thực hiện sau đây.

Hỏi: Xin kính chào ông Nguyễn Xuân Nghĩa. Thưa ông, từ hôm qua Thứ Hai mùng năm tháng 11, các kỹ sư Hoa Kỳ có lẽ đã bắt đầu tháo gỡ lò chế tạo chất plutonium tại căn cứ Yongbyon của Bắc Hàn. Đây là một bước quan trọng trong tiến trình giải tỏa kế hoạch chế tạo võ khí hạch tâm của Bắc Hàn và mở đường cho việc đưa xứ Cộng sản này trở lại với cộng đồng thế giới. Thế giới đang thở phào nhẹ nhõm về sự tiến bộ ấy và dư luận Đông Á cũng đang tự hỏi là liệu Bắc Hàn có noi gương Việt Nam hay Trung Quốc mà tiến hành việc cải cách kinh tế hầu cải thiện đời sống của người dân hay không.

Cách đây hơn một tháng, ban Hàn ngữ của đài Á châu Tự do cũng đã phỏng vấn ông về việc đó để phát thanh về Bắc Hàn. Cụ thể là họ yêu cầu ông nêu lên kinh nghiệm đổi mới của Việt Nam mà chính quyền và dân chúng Bắc Hàn có thể học hỏi. Vì vậy, chúng tôi xin đề nghị là trong chương trình kỳ này, ta có thể trao đổi về tấm gương Việt Nam cho Bắc Hàn. Câu hỏi đầu tiên ở đây là đã đến lúc Bắc Hàn mở cửa hay chưa"

Thưa trước tiên, chúng ta hãy nói về bối cảnh và về hy vọng của các nước Đông Á đối với nỗ lực cởi mở của chế độ Cộng sản Bắc Hàn.

Đầu tiên, Thứ Sáu mùng hai vừa qua, Thủ tướng Bắc Hàn, ông Kim Yong-il, mà ta có thể phiên âm thành Kim Anh Nhật để khỏi lầm với lãnh tụ Kim Jong-il là Kim Chính Nhật, đã đi du thuyết ba nước Đông Nam Á, bắt đầu là Việt Nam, rồi Malaysia, Cambốt và Lào, về các cơ hội đầu tư và mậu dịch với Bắc Hàn. Với Việt Nam, phái đoàn Bắc Hàn đã ký một số hiệp ước về hợp tác nông nghiệp, thể thao và văn hoá. Chuyến thăm viếng đó là một biến cố mới, nối tiếp thượng đỉnh giữa hai lãnh tụ Nam và Bắc Hàn cách đây đúng một tháng, vào mùng bốn tháng 10.

Hôm 28 tháng 10, tuần báo Yazhou Zhoukan, tức là "Á châu tuần san" hay "Asia Week", có tiết lộ là trong dịp Tổng bí thư Nông Đức Mạnh thăm viếng thủ đô Bình Nhưỡng vào trung tuần tháng 10, lãnh tụ Kim Jong-il có nói là Bắc Hàn có thể áp dụng mô thức của Việt Nam để hồi phục nền kinh tế của mình.

Trước những biến cố ấy, dư luận Đông Á có thể kết luận là đã đến lúc Bắc Hàn mở cửa.

Hỏi: Nếu như họ phải mở cửa thì liệu Bắc Hàn có áp dụng mô thức Việt Nam không"

Trả lời cho câu hỏi đó, tôi thiển nghĩ là mỗi quốc gia lại có hoàn cảnh riêng, với lãnh đạo nhắm vào mục tiêu riêng, cho nên không thể áp dụng trọn vẹn mô thức của khác được.

Về mục tiêu của lãnh đạo, thì lãnh đạo Trung Quốc, Việt Nam và Bắc Hàn đều cùng nhắm vào một mục tiêu then chốt, là làm sao mãi mãi cầm quyền. Vì mục tiêu ấy và cũng vì muốn thoát khỏi khủng hoảng kinh tế, cả ba quốc gia vẫn bị chi phối bởi chủ nghĩa cộng sản đều muốn cải tổ kinh tế trong một chừng mực nhất định cho dân khỏi chết đói, bằng cách hợp tác với bên ngoài để thu hút tư bản và kỹ thuật của thế giới. Nhưng đồng thời vẫn duy trì được hệ thống chính trị độc đảng của mình.

Trong chiều hướng ấy, Bắc Hàn có thể tìm hiểu hai mô thức cải cách của Trung Quốc và Việt Nam để lượm lặt bí quyết chiêu dụ quốc tế. Khách quan mà nói thì họ có thể thấy mô thức Việt Nam thích hợp hơn, chẳng phải vì Hà Nội sáng suốt hơn mà vì Trung Quốc là một xứ cực lớn, với rất nhiều bài toán đa diện, nên có hoàn cảnh khác với Bắc Hàn.

Tuy nhiên, và đây cũng là điều mà dư luận cần chú ý, thật ra Bắc Hàn đã muốn xoay từ lâu rồi chứ không phải bây giờ mới bắt đầu nghĩ đến việc mở cửa.

Hỏi: Ông nêu lên một cái ý rất lạ! Vì sao ông cho rằng Bình Nhưỡng đã muốn đổi hướng từ lâu rồi"

Thời Chiến tranh lạnh, các chứng tật của chủ nghĩa Mác-Lênin và lề lối quản lý kinh tế tập trung bị dìm sâu dưới yêu cầu về an ninh cho chế độ. Nhưng kinh tế chính trị học Mác-Lenin của các nước như Bắc Hàn hay Việt Nam chỉ có thể tồn tại như vậy khi có một hậu phương yểm trợ là Liên Xô và Trung Quốc. Khi chiến tranh lạnh kết thúc, Liên Xô tan rã, Bắc Hàn phải dựa vào Trung Quốc.

Thời ấy, Trung Quốc đã tiến hành chính sách mở cửa của Đặng Tiểu Bình để thoát cơn khủng hoảng, và bình thường hoá quan hệ với Nam Hàn để du nhập tư bản, kỹ thuật và cả kiến thức về công nghiệp hoá của Nam Hàn. Vì vậy, lãnh đạo Bình Nhưỡng thấy chột dạ. Năm 1992, lãnh tụ Kim Nhật Thành mới đành tiến hành cải cách, một cách rất dè dặt, y như Hà Nội thời đó. Khốn nỗi, ông ta tạ thế năm 1994 và con trai là Kim Chính Nhật mất mấy năm để củng cố quyền lực của mình, trong khi xứ sở lụn bại, kinh tế khủng hoảng, hai triệu người chết đói vì Bắc Hàn tự cô lập dưới khẩu hiệu gọi là "tự chủ". Và càng lệ thuộc nhiều hơn vào nguồn trợ cấp rất đáng ngại của Trung Quốc.

Qua thế kỷ 21, từ năm 2001, Bắc Hàn muốn xoay ra và dùng võ khí hạch tâm như một lối bắt bí thiên hạ để tống tiền, thực chất là để Hoa Kỳ phải quan tâm, đối thoại và dắt mình ra khỏi cơn khủng hoảng. Là chuyện đang xảy ra ngày nay. Nếu nhớ lại như vậy, người ta có thể hiểu vì sao Bắc Hàn sẽ không áp dụng mô thức Trung Quốc.

Hỏi: Sau khi nói về mục tiêu của lãnh đạo, bây giờ, ta hãy nói về hoàn cảnh của xứ sở. Bắc Hàn cần những gì về kinh tế và căn cứ trên thực tế đó, họ có thể áp dụng mô thức nào trong việc cải cách của họ"  

Bắc Hàn cần mở ra để tiếp nhận tư bản và kỹ thuật hầu công nghiệp hoá một xứ sở bị khoá trên vùng Đông-Bắc Á giữa hai đồng chí cũ là Liên bang Nga, Trung Quốc và một kẻ thù nhưng đồng bào là Nam Hàn. Ở vòng ngoài là Nhật Bản. Tuy nhiên, vì yêu cầu của chế độ độc tài, họ chỉ muốn mở ra trong chừng mực nhất định, ở những khu vực nhất định, hầu việc cải cách hay kinh tế thị trường không gây quá nhiều biến đổi trong xã hội dẫn tới những biến đổi về chính trị mà chế độ không chấp nhận được.

Họ có thể đang lần mò vào vết xe của Việt Nam hơn chục năm trước, khi lập ra khu chế xuất hay vùng kinh tế trọng điểm. Nôm na là đặc khu kinh tế, chẳng khác gì các tô giới thời thực dân vào thế kỷ 19. Cái khác là xưa kia, các nước Á châu bị ép như vậy, bây giờ là lãnh đạo độc tài Á châu tái lập vùng thuộc địa ngay trong nước. Bên trong, một thiểu số có quyền thì được tiếp xúc với - và trục lợi nhờ - giới đầu tư và thị trường bên ngoài,  cả xã hội còn lại vẫn tiếp tục sống dưới cái gọi là sự ổn định lạc hậu của xã hội chủ nghĩa.

Hỏi: Dường như là ông đang mô tả một hình thái phát triển đặc thù của Bắc Hàn chứ Việt Nam ngày nay đã ra khỏi lối suy nghĩ chật hẹp đó rồi và doanh nghiệp nước ngoài nay đã có thể thành lập ở mọi nơi tại Việt Nam.

Thưa đúng vậy, nhưng Việt Nam đã mất 10 năm mới tiến ra chỗ đó. Mười năm về trước, diễn đàn chuyên đề này của chúng ta có nói là nên dẹp bỏ loại hình khu chế xuất đã lỗi thời để cả lãnh thổ đều có thể mở ra với thế giới bên ngoài thì mới tiến hoà đồng đều.

Trở lại chuyện Bắc Hàn, lãnh đạo xứ này bị ám ảnh bởi nhu cầu kiểm soát và bị cột trong tư duy xã hội chủ nghĩa, lấy công nghiệp nặng làm cơ sở và mở ra bên ngoài theo nhãn quan Nga - Tầu. Họ khởi đi từ hai đặc khu kỹ nghệ đã có từ xưa. Một ở phiá Đông-Bắc, sát biên giới với Nga và tỉnh Cát Lâm của Tầu là Najin, gọi theo Nam Hàn, hay Rasin-Songbong, tức là La Tân Tiền Phong Quận. Khu thứ hai là Sinuiju - hay Tân Thọ Châu - đối diện với thành phố Đan Đông của tỉnh Liêu Ninh bên sông Áp Lục. Năm 2003, họ lập ra đặc khu kinh tế thứ ba, là Kaesong - hay Khai Thành - sát biên giới Nam-Bắc Hàn. 

Được khai thông bằng đường xá và thiết lộ, các đặc khu ấy thu hút được một số đầu tư Nga, Trung Quốc hay Nam Hàn, nghĩa là không nhiều và ít thành công. Chưa kể là năm ngoái, Trung Quốc còn đóng cửa không cho phép doanh gia đi qua làm ăn tại đặc khu Tân Thọ Châu vì sợ cạnh tranh với luồng xuất khẩu của họ từ Đan Đông!

Do kinh nghiệm ấy, Bắc Hàn có thể dùng các đặc khu này làm thỏi nam châm thu hút đầu tư quốc tế và mở thêm các hải cảng Nampo và Haeju làm thương cảng giao lưu với Hoàng hải và Nhật Bản và thế giới bên ngoài. Ưu thế họ nghĩ là mình có là khối lượng nhân công rẻ tiền và bị kiểm soát rất chặt chẽ để phục vụ các đặc khu được khoanh vùng trong thành lũy hầu ngăn ngừa được mọi sự ô nhiễm xã hội hay chính trị.

Hỏi: Nếu như vậy, có lẽ mô thức mở cửa của họ không giống với Việt Nam. Nhưng liệu họ có thành công theo chiến lược mở cửa hạn chế và khoanh vùng như vậy hay không"

Thưa rằng thành công hay không là căn cứ trên những mục tiêu của lãnh đạo. Chế độ Cộng sản Bình Nhưỡng chỉ cần huy động tư bản, thiết bị và công nghệ cho nền kinh tế lạc hậu của mình mà vẫn hạn chế ảnh hưởng của Tây phương hay tư tưởng tự do dân chủ. Cho nên mục tiêu không khác, nhưng khắt khe hơn Việt Nam. Trong các khu vực ấy, nhân viên được tuyển chọn và kiểm soát rất kỹ để cùng lắm thì học nghề của tư bản chứ không thể reo rắc những tư tưởng mà lãnh đạo gọi là phản động. Nếu chỉ nhắm vào mục tiêu đó thì sự thành bại tùy thuộc vào thiện chí đầu tư của quốc tế.

Hỏi: Thế liệu giới đầu tư bên ngoài có bước vào những đặc khu kỳ lạ ấy hay không"

Tôi thiển nghĩ là có vì ta không nên đánh giá thấp tham vọng hay lòng tham của thiên hạ.

Nam Hàn có thể tiếp tay Bắc Hàn trong chiều hướng ấy vì lý do chính trị, khi chính quyền khuyến khích doanh nghiệp đi vào hợp tác, là điều ta đã thấy. Một số liên doanh quốc tế cũng có thể nhảy vào và sở dĩ liên doanh là để phân tán rủi ro chính trị với nhau. Nhiều tập đoàn về năng lượng cũng muốn thăm dò một thị trường còn khép kín và có nhiều tài nguyên khoáng sản. Chủ yếu thì vẫn là giới đầu tư Trung Quốc, Nam Hàn và Âu châu, như  Đức, Anh, Ý, Thụy Sĩ. Họ lập nhà máy, mở trường đào tạo, lập quỹ đầu tư, v.v... và nếu Bắc Hàn hết bị phong tỏa thì đến lượt doanh nghiệp Mỹ rồi Nhật cũng sẽ không lỡ cơ hội, vì rủi ro chính trị của một chế độ bị sụp đổ coi như sẽ được đẩy lui.

Hỏi: Nói như vậy thì chiến lược phát triển khoanh vùng và có hạn chế như vậy vẫn có thể thành công được chứ"

Thưa nếu ta so sánh với tình hình khủng hoảng và hoàn cảnh chết đói năm năm về trước thì việc mở cửa như vậy quả là một tiến bộ và Bắc Hàn có thể sẽ thành công. Nhưng chỉ thành công chừng ấy thôi.

Lý do là đầu tư nước ngoài sẽ tập trung vào khoáng sản và nguyên liệu theo mô thức khai thác thời thuộc địa, với rất ít lợi ích toả rộng hay nhỏ giọt xuống dưới cho người dân. Thứ hai, mô thức đặc khu kinh tế hay khu chế xuất như vậy không thể có chuyển giao công nghệ sâu và rộng cho người dân. Nghĩa là người dân Bắc Hàn tiếp tục làm nô lệ và không học hỏi được gì để cải thiện cuộc sống của mình. Trong hoàn cảnh ấy, ta sẽ khó thấy một làn sóng đầu tư quốc tế tràn vào Bắc Hàn để tiếp cận và trao đổi với xã hội rồi sẽ thay đổi được mức sống của người dân xứ này, như chúng ta đang thấy tại Việt Nam.

Tuần này, khi thấy Tổng trưởng Thương mại Hoa Kỳ dẫn đầu một phái đoàn doanh gia Mỹ thăm viếng Việt Nam để mở rộng quan hệ ngoại thương và đầu tư, có lẽ lãnh đạo Bình Nhưỡng sẽ tìm hiểu rất kỹ để cân nhắc rủi ro và lợi ích. Việt Nam đã mất hai chục năm từ khi hé cửa cho đến nay thì có lẽ dư luận cũng chẳng nên nóng ruột hay hồ hởi tin vào một phép lạ kinh tế Bắc Hàn. Tư duy khiếp nhược của lãnh đạo và sự sợ hãi của người dân bị cộng sản cai trị quá lâu là điều gì đó rất khó gột bỏ được ngay.

Xin cám ơn kinh tế gia Nguyễn Xuân Nghĩa.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
“Ý thức xã hội mới Việt Nam “là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, những tình cảm, tâm trạng, truyền thống tốt đẹp, v.v. của cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ xã hội mới”. Nói như thế là cuồng tín, vọng ngoại và phản bội ước vọng đi lên của dân tộc...
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
Hí viện Crocus City Hall, cách Kremlin 20 km, hôm 22 tháng O3/2024, đang có buổi trình diển nhạc rock, bị tấn công bằng súng và bom làm chết 143 người tham dự và nhiều người bị thương cho thấy hệ thống an ninh của Poutine bất lực. Trước khi khủng bố xảy ra, tình báo Mỹ đã thông báo nhưng Poutine không tin, trái lại, còn cho là Mỹ kiếm chuyện khiêu khích...
Khi Việt Nam nỗ lực thích ứng với môi trường quốc tế ngày càng cạnh tranh hơn, giới lãnh đạo đất nước đã tự hào về “chính sách ngoại cây giao tre” đa chiều của mình. Được Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), thúc đẩy từ giữa thập niên 2010, ý tưởng là bằng cách cân bằng mối quan hệ của Việt Nam với các cường quốc – không đứng về bên nào, tự chủ và thể hiện sự linh hoạt – nó có thể duy trì sự trung gian và lợi ích của mình, đồng thời tận dụng các cơ hội kinh tế do tình trạng cạnh tranh của các đại cường tạo ra
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.