Hôm nay,  

Dân Tây Tạng: Lưu Vong Mà Không Mất Bản Sắc

05/05/200700:00:00(Xem: 9266)

Dharamsala dưới chân núi tuyết.

...Lưu vong mà không vong căn thất cước...

Tháng Ba năm ngoái, đức Đạt Lai Lạt Ma đã có bài huấn từ cho dân Tây Tạng với một ý kiến bất ngờ. Đại để thì dân số Tây Tạng ngày nay chỉ còn có sáu triệu người, nếu ai cũng xuất gia đi tu thì điều ấy chưa hẳn là có lợi cho Tây Tạng. Nhận xét trên của một vị lãnh đạo Phật giáo Tây Tạng là điều đáng chú ý.

Ngài là người thực tiễn hơn chúng ta có thể nghĩ. Dân Tây Tạng cũng vậy, và sự thực tiễn của họ thể hiện theo cách khác, khác với tinh thần thực tiễn của chúng ta theo nếp văn hoá bị ảnh hưởng của Trung Hoa.

Ngay sau Tết Kỷ Hợi 1959, Hồng quân Trung Quốc xâm chiếm phần đất còn lại của Tây Tạng sau khi đã khống chế các tỉnh miền Đông chỉ một năm sau khi Mao Trạch Đông làm chủ Hoa Lục. Kể từ đó, dân Tây Tạng chết mất một triệu hai trăm ngàn người, chừng một triệu bị tống vào trại "lao cải" Trung Quốc. Sáu triệu dân Tây Tạng ngày nay lại sống dưới ách trực trị của Hán tộc, trên một vùng đất thực ra rộng hơn Tây Âu nhưng là thiểu số bên cạnh bảy triệu rưởi người Hoa. Một thiểu số và là công dân hạng hai.

Phật tử da trắng đón lộc Phật do đức Đạt Lai Lạt Ma ban.

  Tây Tạng đang bị Hán hoá dần dần, và bởi một chế độ vô thần.

Từ 1959 đến nay, nhiều đợt nạn dân Tây Tạng đã trốn ra ngoài sau khi đức Đạt Lai Lạt Ma phải rời Lhasa vào đêm 17 tháng Ba năm đó. Hiện nay, có chừng 100 ngàn người Tây Tạng đang sống lưu vong ở bên ngoài, đa số, chừng 85 ngàn là tại Ấn Độ.

Trong chuyến thăm viếng Ấn Độ vừa qua, người viết đã tới Dharamsala thuộc tiểu bang Himachal Pradesh ở miền cực Bắc xứ này. Đây là thành phố nép mình dưới Hy Mã Lạp Sơn trên một cao độ hơn 1.500 thước và là thủ đô của dân tỵ nạn Tây Tạng. Dharamsala cũng được gọi là Little Lhasa, là trụ sở của Chính phủ Tây Tạng Lưu vong, dưới quyền lãnh đạo của đức Đạt Lai Lạt Ma, một Quốc hội và một vị Thủ tướng. 

Ngay sau khi tỵ nạn, đức Đạt Lai Lạt Ma đã quyết định cải cách cơ chế chính trị để chuyển dần qua một chế độ dân chủ theo thế quyền. Từ năm 1960, Ngài cho soạn thảo một bản Hiến pháp mới, được trình bày lên Nội các Kashag năm 1963, và từ đấy, một chính quyền dân chủ bắt đầu thành hình, với Quốc hội, Nội các và quyền đại diện của các cộng đồng lưu vong tứ tán trên thế giới.

Ước nguyện của đức Đạt Lai Lạt Ma là sau khi Tây Tạng được quyền tự trị thì Ngài sẽ tự chấm dứt vai trò lãnh đạo chính trị để trở lại vị trí của một vị sư mà thôi. Trong cuộc tiếp xúc hồi tháng Chín năm ngoái tại California với người viết bài này, Ngài cũng vẫn tự xưng như vậy, chỉ là một tỳ kheo thôi.

Trong mấy tuần tại Dharamsala, người viết có nghe vị tỳ kheo xuất chúng ấy giảng pháp về Bồ Tát hạnh và Bồ Đề tâm và sau đó tiếp xúc với dân Tây Tạng lưu vong tại đây, nhiều người đã sinh tại Nepal hay Ấn Độ, nhiều người thì mới vượt biên từ quê hương ra được vài năm. Nhiều người trốn sang bằng đường bộ để nghe Ngài thuyết pháp vào đầu năm rồi sẽ lén trở về với gia đình, ở bên kia Hy Mã Lạp Sơn.

Nhận xét đầu tiên và bao trùm lên mọi khía cạnh độc đáo khác của dân Tây Tạng hay của Phật giáo Tây Tạng là bản năng tập thể của họ hướng về mục tiêu giáo dục.

Việc đầu tiên mà mọi cộng đồng Tây Tạng thành hình ở mọi nơi đều thực hiện ngay là lập trường học. Đức Đạt Lai Lạt Ma thường xuyên căn giặn dân chúng như vậy. Đây là bản năng sinh tồn trước mối nguy bị diệt chủng về văn hoá.

Tuy nhiên, với dân Tây Tạng, hai định chế là tu viện và trường học thực ra đã hoà làm một và nói đến tu viện, ta đừng nghĩ đến các ngôi chùa của mình mà là những trung tâm tu tập và giáo dục rộng lớn, có khi chứa đến mấy ngàn học sinh hay tiểu sa môn. Tại đây, màu đỏ xậm của tăng bào là màu chính. Người viết đã thăm chừng một chục tu viện như vậy và đã vào tìm hiểu một số trường học do cộng đồng Tây Tạng lưu vong lập ra trên đất Ấn.

Ngôi điện chính tại Mundgod

Đến đây cần nhắc lại lời khuyên của đức Đạt Lai Lạt Ma về chuyện đi tu: Ngài cho rằng thu mình vào chùa để tìm sự giải phóng cho riêng mình là điều sai. Cho nên, chức năng giáo dục trong các tu viện chiếm phần quan trọng không kém chức năng hoằng pháp. (Phật giáo Tây Tạng vốn theo Đại thừa, nhưng một nhánh đặc biệt của Đại thừa là Kim cang thừa). Chương trình giảng huấn vì vậy bao gồm rất nhiều bộ môn không có trong các ngôi chùa thông thường như ta nghĩ, kể cả khoa học, kinh tế hay điện toán.

Nói cho đơn giản nên có thể phiến diện, người Việt ta có phản ứng đầu tiên là mở tiệm phở hay lập tờ báo, sau đó mới là các trung tâm dạy Việt ngữ, dân Tây Tạng thì mở trường học. Từ một cộng đồng chỉ có trăm ngàn dân, với vài chục ngàn tại Ấn, mật độ rất cao của các trường học kiêm tu viện ấy là điều đáng chú ý nhất.

Sau khi mở trường, họ ra sức thu thập kiến thức Tây Tạng về đủ mọi lãnh vực, từ tôn giáo, văn hoá đến mỹ thuật, nghệ thuật và cả y học cổ truyền, để bảo tồn và phát huy. Họ đang đào tạo ra nhiều thế hệ nghệ sĩ, nghệ nhân hay thợ khéo để văn hoá và nghệ thuật dân tộc không bị mai một ở bên ngoài, trong khi đang bị biến chất và Hán hoá ở bên trong. Người viết đã thăm một viện bảo tàng mà thực sự là trường cao đẳng mỹ thuật Tây Tạng và một thư viện kiêm thư khố Tây Tạng để xem các tài liệu hình ảnh, và cả những cổ thư, được lưu trữ hẳn hoi. Chúng ta thật ra chưa có những trung tâm như vậy.

Chẳng những thế, họ còn ra sức học hỏi để phiên dịch di sản này ra ngoại ngữ và khi nhìn các vị sư tanh tách gõ máy điện toán hay lên Internet để liên lạc với nhau, có khi bằng Anh ngữ, người viết phải tự cúi đầu.

Trong nỗ lực bảo tồn và truyền bá ấy, dân Tây Tạng được sự giúp sức tích cực của nhiều học giả Tây phương - Âu Châu và Hoa Kỳ -, mà đa số cũng là những Phật tử hay chuyên gia am hiểu Tạng ngữ. Những người da trắng, dù chẳng là sư, quỳ lạy đức Đạt Lai Lạt Ma dưới đất và niệm chú bằng Tạng ngữ không còn làm ai ngạc nhiên ở Dharamsala.

Tiểu sa di tập đồ 

  Một trong những thành tích - hay công đức - đáng quý nhất của đức Đạt Lai Lạt Ma chính là khả năng thuyết phục và huy động sự tiếp tay yểm trợ của người ngoại quốc. Ngài không chỉ là người hoằng pháp xuất chúng nhất của lịch sử Phật giáo trong một thế giới toàn cầu hoá ngày nay, mà còn là một nhà "quốc tế vận" có khả năng nhất khi kêu gọi thế giới tiếp tay bảo vệ bản sắc văn hoá của Tây Tạng và nói đến sự đóng góp đáng kể của kiến thức Phật giáo cho khoa học của nhân loại. (Khi đọc cổ thư Tây Tạng về chuyện tử vong và tái sinh, người viết cảm thấy rằng Sigmund Freud là một... học sinh, và mình là kẻ dốt nát!)

Khi ngồi ăn trên một nhà hàng thanh lịch do Richard Gere bỏ tiền lập ra để thu tiền cho dân Tây Tạng, người viết tự nêu ra một câu hỏi rất kinh tế: với dân số lưu vong rất nhỏ như vậy mà đa số lại dốc lòng vào việc tu học, thì ai là người sản xuất"

Dường như dân Tây Tạng chưa có ai là triệu phú và họ không thiên về kinh doanh - dù trong các cửa tiệm Tây Tạng, khách hàng yên tâm là được phục vụ cực kỳ chu đáo, lễ độ và với giá cả phải chăng, khác hẳn các cửa hàng Ấn Độ.

Nhưng không hằng sản, họ lại là những người hằng tâm.

Họ sống chính là để vận động thế giới đừng quên Tây Tạng, đừng quên một cộng đồng lưu vong Tây Tạng như giọt nước trong đại dương hơn một tỷ người Ấn. Và đừng quên sáu triệu dân Tây Tạng đang co cụm dần trước sự năng động của một tỷ ba trăm triệu người Trung Quốc và một chế độ bá quyền. Chính là phản ứng sinh tồn siêu đẳng này của nhiều người Tây Tạng tại Hoa Kỳ đã khiến người viết đi tới tận Ấn Độ!

Chuyện quyên góp từ khắp nơi để dồn về Ấn Độ là một hành động thường trực của dân Tây Tạng lưu vong. "Tất cả cho Phật pháp và quê hương" không là một khẩu hiệu xuông! Nhìn dân Tây Tạng biểu tình tại Dharamsala ngày 10 tháng Ba để kỷ niệm ngày Lhasa vùng dậy năm 1959, người ta phải học lại về... kỹ thuật biểu tình và kêu gọi yểm trợ...

Điều bất ngờ là tại Ấn Độ, mọi cơ quan thiện nguyện Tây Tạng đều có sự quản lý của... một sở kế toán Ấn. Thu được bao nhiêu từ năm châu thế giới và chi ra bao nhiêu cho việc ăn học hay dạy nghề ở tại chỗ đều được chính quyền Ấn ở địa phương cứu xét. Và sự ngăn nắp Tây Tạng trong từng nếp sinh hoạt là đặc điểm nổi bật so với sự luông tuồng dơ bẩn và vô trật tự của dân tộc chủ nhà là người Ấn!

Tại miền cực Nam Ấn Độ, trong một khu vực hẻo lánh mà được kiểm soát kỹ vì gần một căn sứ hải quân Ấn, dân Tây Tạng cũng có một dẻo đất dung thân khác. Đó là Mundgod của tiểu bang Karnataka. Mấy chục năm trước, nạn dân Tây Tạng được quăng vào giữa rừng già và dựng lều mà sống. Từ Hy Mã Lạp Sơn buốt giá, dân tỵ nạn Tây Tạng đã được thả vào rừng nhiệt đới, nhưng họ không chết vì đói hay bệnh mà ra sức dựng lại một cõi Tây Tạng khác. Sau một ngày đi xe dọc Ấn Độ từ Bắc xuống Nam, và xuyên qua rừng trên những con đường mới chỉ trải đá, thì mờ sáng hôm sau người viết đã bàng hoàng thấy ra "cõi Tây Tạng" ấy.

Phật tử nghe đức Đạt Lai Lạt Ma thuyết pháp.

  Nguy nga và khang trang không tưởng tượng nổi.

Ngôi đền chính, được dựng lên đầu tiên tại Mundgod theo kiến trúc và mỹ thuật tôn giáo Tây Tạng, còn lớn gấp bội so với chùa Xá Lợi hay Vĩnh Nghiêm ở Sàigòn. Và chung quanh là rất nhiều tu viện, học xá, bệnh xá, viện bảo tàng, thậm chỉ cả một trung tâm dưỡng bệnh cho... người Ấn cao niên và một nhà nuôi dưỡng trẻ Ấn bị mục tật.

Mundgod là một ngôi làng Ấn nay đang trở thành một thị trấn Tây Tạng trải rộng trên một diện tích chừng 16 cây số vuông, với mật độ rất cao của các tu viện lớn nhỏ. Bên trong là sự sạch sẽ như của Thụy Sĩ, bên ngoài, ở các khu vực sinh sống của Ấn Độ thì ta ngỡ như lạc vào Phi Châu. Nghe các chú tiểu đánh vần buổi trưa hoặc các nhà sư tập tranh biện buổi chiều, chúng ta thấy như một tổ ong. Nhưng hoàn toàn trật tự. Quanh các kiến trúc đồ sộ ấy là những vườn cây và đường đất, tươm tất khác hẳn mọi ngôi làng Ấn.

Và an ninh nghiêm mật.

Chuyện an ninh nghiêm mật là một bản năng khác của dân Tây Tạng lưu vong. Từ bi, hiền hoà mà cảnh giác.

Họ không đánh giá thấp chính quyền Bắc Kinh vì cách đây không lâu, nhà sư viện trưởng một tu viện cao cấp của dân Tây Tạng tại Dharamsala đã bị điệp viên Trung Quốc đâm chết ngay trong tu viện cùng hai vị sư khác. Được biết là vị cao tăng này đã tái sinh ở một nơi khác tại Ấn, và sẽ tiếp tục công việc dang dở sau khi tu lại từ đầu, làm một tiểu sa môn trong một tu viện nào đó... Viết thêm về danh tính hay nơi cư ngụ hiện nay của nhân vật này ở đây là điều không cần thiết.

Điều cần nhớ, và người viết nhớ hoài, là Trung Quốc có thể hùng mạnh khiến thế giới e ngại hoặc chiều chuộng vì quyền lợi kinh tế, nhưng Bắc Kinh không thể coi thường dân Tây Tạng được. Cộng đồng Tây Tạng kiên trì tồn tại với bản sắc riêng, và kiên trì giúp cho Tây Tạng vẫn là một hồ sơ nóng của thế giới, trong khi tiếp tục quảng bá Phật pháp trên toàn cầu. Họ cũng chẳng đòi quyền độc lập mà chỉ muốn được tự trị để một nền văn minh đặc sắc của nhân loại không bị diệt vong.

Và họ tin rằng việc ấy thể hiện lòng từ bi của Bồ Tát Quán Thế Âm, vị Bồ Tát biểu hiệu cho lòng từ bi của chư Phật, mà đức Đạt Lai Lạt Ma ngày nay là một hóa thân.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi rất thích khoa nhân chủng nhưng không có cơ may đến trường để được truyền thụ một cách bài bản về ngành học thú vị này. Hoàn cảnh sống, nói nào ngay, cũng không mấy thích hợp cho nhu cầu tự học. Suốt ngày (và suốt đời) tôi chỉ loanh quanh hàng quán nơi mà những kẻ hay lê la thường nói rất nhiều, dù sự hiểu biết của họ vốn không được bao nhiêu. Ngoài giới hạn về kiến thức, mấy ông bạn đồng ẩm còn có cái tật rất hay tranh cãi (và luôn cãi chầy cãi cối) nên mọi thông tin, từ bàn nhậu, đều không được khả xác hay khả tín gì cho lắm.
“Tham nhũng chính trị, lệch lạc tư tưởng, băng hoại đạo đức và hủ bại về lối sống. Đây là những kẻ thù rất nguy hiểm của Đảng, cần phải loại bỏ.” Tạp chí Xây Dựng Đảng (XDĐ) đã báo động như thế trong bài viết ngày 26/11/2023...
Đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) nhìn nhận tình trạng “trẻ hóa” trong suy thoái “tư tưởng chính trị ” và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đang gây khó khăn cho công tác “xây dựng, chỉnh đốn đảng”...
Năm 2024 là năm bầu cử, một năm gay go thử thách, và đề tài yêu ghét dù muốn hay không muốn đã trở lại trên các trang báo, trong các buổi tranh luận trong gia đình, ngoài xã hội. Chúc bàn tiệc trong năm của quý vị rôm rả những câu chuyện, những cuộc đối thoại bổ ích hai chiều, những thay đổi tốt đẹp. Và xin cảm ơn quý thân hữu, thân chủ đã hỗ trợ, gắn bó cùng hành trình với Việt Báo trong hơn 31 năm qua. Sau cùng là lời tri ân đến các độc giả Việt Báo: chính quý vị, những người đọc khó tính là thành trì giúp Việt Báo trở thành một tờ báo uy tín, chuyên nghiệp.
Năm 2023 tiến vào những ngày cuối cùng, nó sẽ đi qua và không bao giờ trở lại. Lịch sử sẽ đi qua nhưng những việc làm của con người sẽ tồn tại với sự khôn ngoan và ngu ngốc của đa số. Cụm từ ‘con-người-đa-số’ chỉ định ý muốn chung của đa số người. Và ‘con-người-thiểu-số’ đành phải tuân theo. Trò sinh hoạt dân chủ luôn luôn là con dao hai lưỡi có hiệu quả tùy thuộc sở thích của con người đa số. Sở thích? Một thứ tạo ra tốt lành hoặc khổ nạn. Đúng ra là cả hai, nhưng có một trong hai sẽ lớn hơn, đôi khi, lớn gấp bội phần. Nếu khổ nạn quá lớn thì cuộc sống chung sẽ thay đổi, có khi lâm vào mức tồi tệ. Chẳng hạn như trường hợp nước Đức dưới thời Hitler. Ý muốn của con người đa số đam mê nồng nhiệt ý muốn của Hitler. Cho ông ta cơ hội dẫn đầu một quốc gia quyền lực, tạo ra hiệu quả cuộc chiến thế giới thứ hai. Hậu quả tàn khốc đó do ai? Hitler? Đúng một phần.
“Tự diễn biến, tự chuyển hóa” trong Lực lượng vũ trang nhân dân là mối lo hàng đầu của đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay. Bằng chứng này đã được Tổng Bí thư đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng đưa ra tại Hội nghị Đảng ủy Công an ngày 20/12/2023 tại Hà Nội, và trong nội dung các bài viết trên báo chí chính thống của nhà nước liên quan đến Quân đội...
Người ta nên áp dụng đạo đức vào tài chính trị của Henry Kissinger như thế nào? Làm thế nào để người ta quân bình những thành tựu với những hành vi sai trái của Kissinger? Tôi đã vật lộn với những vấn đề đó từ khi Kissinger là giáo sư của tôi, và sau này là đồng nghiệp tại Đại học Harvard. Vào tháng Tư năm 2012, tôi đã giúp phỏng vấn ông trước một số lượng lớn cử toạ tại Harvard và hỏi liệu ông có làm điều gì khác đi trong thời gian làm ngoại trưởng cho các Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon và Gerald Ford không. Lúc đầu, ông nói không. Suy nghĩ lại, ông nói rằng ước mình là đã hoạt động tích cực hơn ở Trung Đông. Nhưng ông không đề cập đến Campuchia, Chile, Pakistan hay Việt Nam. Một người phản đối ở phía sau hội trường hét lên: "Tội phạm chiến tranh!"
Việt Nam có còn “độc lập” với Trung Quốc hay không sau chuyến thăm Hà Nội của Tổng Bí thư, Chủ tịch nhà nước Tập Cận Bình là thắc mắc của người dân Việt Nam. Ông Tập có mặt ở Việt Nam từ 12 đến 13 tháng 12 năm 2023 và đạt được cam kết của Tổng Bí thư đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng về “xây dựng Cộng đồng chia sẻ tương lai Việt Nam-Trung Quốc”.
Ngày nay, Chiến lược Phòng thủ Quốc gia của Hoa Kỳ – giống như chiến lược Chiến tranh Lạnh tạo chuẩn mực cho tư duy chiến lược trong những năm từ thập kỷ ‘50 đến ’80 – bị chi phối bởi một tác nhân đe dọa chính, đó là Trung Quốc. Điều này vừa cung cấp thông tin vừa tạo điều kiện cho tất cả các mối đe dọa lớn khác có thể xảy ra: Nga, Iran và Bắc Triều Tiên. Giống như thời kỳ Chiến tranh Lạnh, Hoa Kỳ hiện đang lâm vào một cuộc cạnh tranh với đối thủ duy nhất của mình, một cuộc cạnh tranh có khả năng bỏ rơi các thành tựu chính trị, kinh tế và công nghệ. Hoa Kỳ cũng đang ở trong một cuộc chạy đua vũ trang hiện đại, và trong một số trường hợp, chơi trò đuổi bắt và tranh đua để giành tình hữu nghị, gây ảnh hưởng lên các quốc gia khác trên thế giới.
Rồi vào ngày 12/12/2023, tức chỉ sau ba tháng, Việt Nam lại long trọng tiếp đón Chủ Tịch Tập Cận Bình và nói rằng hợp tác và hữu nghị với Trung Quốc là lựa chọn chiến lược của Việt Nam...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.