Hôm nay,  

Sự Thật Đằng Sau Chiếc Yếm Bỏ Ngõ

11/02/201000:00:00(Xem: 6663)

Sự Thật Đằng Sau Chiếc Yếm Bỏ Ngõ

Ba tấm ảnh đều hở hang có dàn dựng.


Trịnh Thanh Thủy
Gần đây Hà Nội tưng bừng với cuộc triển lãm ảnh Để hiểu hơn về một Hà Nội xưa, do tạp chí Xưa và Nay phối hợp với Thư viện Hà Nội tổ chức. Báo chí toàn quốc đều loan tin và viết bài phóng sự về cuộc triển lãm hiếm có đã quy tụ được nhiều nhà sưu tập ảnh, trong đó có nhà sưu tập bưu ảnh nổi tiếng người Pháp Philippe Chaplain.
Trong số các bài viết có một bài viết “Lý lịch bằng ảnh của một thuộc địa” của Kiều Trinh gây sự chú ý đến người đọc nhiều nhất. Nó tạo sự ngạc nhiên không những bằng vài tấm ảnh áo yếm của phụ nữ bị bóc vỏ mà còn bằng những lời tuyên bố đáng suy ngẫm của một hội viên hội khoa học là ông Lê Cường và những nhận xét của nhà nhiếp ảnh Hữu Bảo.
Đây là một trích đoạn:
Trong số hơn 100 chủ đề được trưng bày trong triển lãm này, những tác phẩm về sinh hoạt hàng ngày thu hút người xem hơn cả. Một chủ đề được người xem quan tâm và đặt nhiều dấu hỏi là áo yếm. Điều kỳ lạ với người xem là độ “hở hang” của những phụ nữ này. Trái với quan niệm “hiện hành” của nhiều người về sự kín đáo của người Hà Nội, phần lớn người trong ảnh đều mặc áo yếm mà hở ngực. Chiếc yếm chỉ che kín phần giữa ngực, còn hai bầu ngực thì lại hoàn toàn lộ ra!
......
Về điều này, ông Lê Cường, hội viên hội Khoa học lịch sử nói: “Điều này chứng tỏ, nho giáo đã không chạm tay đến tất cả mọi người trong xã hội. Và trong dân gian, tín ngưỡng phồn thực vẫn có sức sống riêng. Điều này không chỉ thể hiện rõ qua những cảnh yêu đương trên những thạp đồng Đào Thịnh, bia chùa Tứ Liên mà còn tồn tại trong sinh hoạt thường ngày. Và ngay cả những người có ý thức nho giáo thì các cụ cũng chỉ nho lúc đông người thôi. Điều đó xin được khẳng định là không hề dung tục”.
Ông Cường cũng cho rằng không nên nghi ngờ về tính “dàn dựng” phi thực tế của bộ ảnh này bởi chúng được xây dựng trên tinh thần dân tộc học rất rõ nét. Tuy nhiên, chính vì thế, bên cạnh tính tư liệu, nó không tránh khỏi cái nhìn về người Việt Nam như một dân tộc lạc hậu.
“Sắp xếp chân thực”– dòng chảy khác của nhiếp ảnh
Cũng đánh giá cao tính chân thực của các tác phẩm trong triển lãm, nhà nhiếp ảnh Hữu Bảo nhận xét: “Những bức ảnh ở đây thể hiện rất rõ tâm thế của một “nước lớn” khi tiếp cận những thông tin lý lịch bằng hình ảnh của các thuộc địa của mình. Với những tấm bưu thiếp đẫm ý thức quảng bá du lịch, người xem sẽ hiểu, xứ chồng con mình đang sống là như thế này”.
“Các tác phẩm được chụp bởi những tay máy chuyên nghiệp và điều quan trọng là họ rất tôn trọng văn hoá......
Càng nhìn những tấm ảnh hở hang của phụ nữ Việt Nam xưa, tôi càng nghi ngờ, càng thấy rõ tính dàn dựng phi thực tế trong chủ ý của người chụp và dã tâm của người phổ biến chúng vào bưu thiếp như một phương tiện quảng bá ngành du lịch hay một mưu đồ chính trị gian trá của Pháp quốc thời ấy.
Nếu nhìn sâu hơn, chúng ta thấy những bức ảnh này có sự sắp xếp của một nhiếp ảnh gia không chân chính, dù khung cảnh được xây dựng bằng những nét mộc mạc bình dị của người  phụ nữ lao động thường nhật. Nó thiếu tự nhiên dù đã được dàn dựng bằng người thật và những vật liệu làm cho giống như thật. Đó cũng chính là gian ý nửa hư nửa thực, mập mờ đánh lận con đen của người chụp những tấm ảnh khoả thân này.
Hãy nhìn vào khuôn mặt người mẫu trong tấm hình ba cô gái đang ngồi (hình số 1), có một cô đang cầm dọc tẩu hút thuốc. Chính giữa là một cô bé có lẽ với động tác châm thuốc, còn hai cô kia đều mặc yếm, nhưng cả hai chiếc yếm bị vén qua một bên với chủ ý phanh ngực ra. Khuôn mặt hai cô gái mang đầy vẻ sượng sùng, khổ não, đau đớn và tủi nhục hơn tâm trạng mong chờ phút sung sướng của một người đang đợi hút. Vì sao" Ta có thể tưởng tượng ra đằng sau chiếc yếm bỏ ngỏ kia là một cường lực vì người chụp là người Pháp, kẻ thống trị hét ra lửa, kẻ nắm trong tay thân phận người dân bị trị.
Còn cái dáng ngồi chàng hảng mời gọi của một trong hai cô gái ngực trần nữa, tiết lộ rõ ràng ở đây có sự sắp đặt của một tay phó nhòm chuyên nghề chụp ảnh khiêu dâm!!!
Tôi trộm nghĩ cái thời xa xưa đó ( có thể là 1888), chắc chưa có nghề người mẫu khoả thân cho các tay chụp hình chuyên nghiệp tha hồ chụp như bây giờ, nhất là các tay phó nhòm lại là người Tây Phương. Và vào những năm người Pháp bắt đầu đô hộ chúng ta chưa có phong trào lấy Tây cũng như sự hiện diện của nhà thổ(ra đời khoảng 1940 trở đi) . Vậy thì ba giả thuyết: người mẫu chuyên nghiệp, vợ Tây và gái giang hồ có thể bỏ qua một bên.
Chỉ có giả thuyết cuối cùng là những người dân lao động quê mùa này bị ức hiếp, bắt buộc phải tuân thủ làm theo mệnh lệnh “bắt cởi phải cởi, bắt chết phải chết” của người chủ nô lệ.
Khuôn mặt nô lệ buồn bã, chịu đựng của tấm hình số 2 cũng vậy, nó thuần túy một tấm hình khoả thân trần trụi không một nét nghệ thuật văn hoá nào cả.
Chiếc áo yếm nô lệ này không có nét hấp dẫn nửa kín nửa hở nào như các nhà phê bình ngày nay hay ca tụng vẽ vời đầy rẫy trên các trang web. Nó chỉ mang một tính lịch sử đau đớn của tổ tiên ta mà thôi.
Tôi rất ngạc nhiên gần như shốc khi thấy các tấm hình này và tự hỏi không lẽ các bậc phụ nữ tổ tiên ta ngày xưa hở hang đến thế sao. Trong khi từ bé mẹ tôi răn dạy tôi rằng: “Con gái phải kín đáo, áo mặc chớ hở hang, đi đứng nhẹ nhàng khoan thai, ngồi thì khép chân lại, lúc nào cũng phải giữ ý tứ”.
Hỏi lại thì mẹ tôi trả lời thế này. Thời bà ngoại tôi sống, lúc đó chưa có áo ngực (su chiêng) thì mặc áo yếm nhưng áo yếm chỉ là áo lót, bên ngoài phải mặc áo ngắn, áo cánh  hay áo dài. Khó khăn hơn thì phải bịt chặt ngực lại hay nén ngực chứ không phải hớ hênh vậy đâu. Thời Pháp thuộc, người dân ai cũng sợ lính Tây lắm nhất là lúc chúng qua làng đi ruồng bố. Mẹ kể, em gái của mẹ khi đó gánh hai gánh phân đi trên đường làng, tụi Tây thấy la “gái gái” và ào tới lột quần áo cưỡng hiếp cô (mặc cho phân rơi rớt) ngay trên đường làng trước mắt bao nhiêu người mà không ai dám can thiệp. Do đó việc chúng bắt phụ nữ cởi truồng hay trần cho chúng chụp hình là chuyện thường tình.


Bố tôi thì kể thêm về cái yếm như thế này. Gia đình bên mẹ tôi  khá giả nên còn có áo mặc ra ngoài chiếc yếm, còn bên bố tôi hồi ấy nghèo quá. Bà nội tôi chỉ có độ một, hai cái áo thôi lại còn bị vá chùm, vá đụp. Bà thường thường chỉ có mặc yếm ra đồng làm việc mà cất chiếc áo đi sợ rách, sợ khi thời tiết trở lạnh, không có áo mà mặc. Năm Ất Dậu,  nạn đói tràn lan vì chính sách thâm hiểm của Nhật - Pháp nhằm dồn cả một dân tộc vào thảm họa diệt chủng. Bố tôi đi làm phu lục lộ không đủ tiền mua thực phẩm cho cả gia đình. Bà chịu hy sinh nhịn đói mà chết, để nhường miếng ăn cho chồng, cho con. Mỗi lần nhớ tới bà, bố tôi lại rơi nước mắt ân hận không nuôi nổi mẹ phải để mẹ chết vì thiếu ăn.
Qua câu truyện trên, tôi biết thêm là người phụ nữ nhà quê thời ấy vì nghèo không đủ quần áo nên phải mặc phong phanh chiếc yếm không như vậy(nhưng rất kín đáo, che hai bầu ngực), chứ không phải vì đó là một thứ  “văn hoá phồn thực” vượt ra ngoài vòng rào nho giáo như ông Lê Cường, hội viên hội Khoa Học Lịch sử phát biểu.
Nếu xét theo văn hoá truyền thống, phụ nữ Việt Nam thời ấy ăn mặc rất kín đáo, trong  lệnh vua phép nước cũng có ghi chép rõ ràng. Theo tài liệu sách Đại Nam Thực Lục Tiền Biên, dưới thời các chúa Nguyễn, Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát đã ban hành sắc dụ về ăn mặc cho toàn thể dân chúng xứ Đàng Trong. "Thường phục thì đàn ông, đàn bà dùng áo cổ đứng ngắn tay, cửa ống tay rộng hoặc hẹp tùy tiện. Áo thì hai bên nách trở xuống phải khâu kín liền, không được xẻ mở....”.  Riêng tại Kinh đô Huế, nơi luật lệ thực thi nghiêm ngặt, đàn bà ra đường thường mặc áo dài kể cả lúc đi bán hàng rong. Tục lệ này còn lưu giữ cho tới bây giờ.
Nếu xét theo thực chứng, chúng ta xem thêm rất nhiều những bức hình chụp cảnh dân cư Hà Nội lúc đó, ta thấy phụ nữ ăn mặc rất đàng hoàng, kín đáo thậm chí đến nỗi bít bùng hai ba lớp nữa kia. Chỉ có vài ba tấm hình phụ nữ ở trần này nằm lẫn lộn vào gây ấn tượng mạnh làm bẻ cong sự thật.
Khi tôi viết bài này, qua những email truyền đi trên mạng thì tôi và bạn bè tôi, hầu hết ai cũng nhận được các bức hình khoả thân với tựa đề “Hình ảnh phụ nữ VN khoả thân của đầu thế kỷ trước” được phát tán và lưu hành khắp nơi. Loạt hình đó, theo lối sắp xếp dàn dựng cảnh và người thì ai cũng đoán ra cùng một nhiếp ảnh gia là tay chơi thích chụp những hình ảnh khiêu dâm. Trong bộ sưu tập ảnh hoàn toàn khoả thân này có vài ba tấm hình hở ngực đã được đem ra trưng bày trong buổi triển lãm vừa qua. Tôi còn lưu giữ những tấm ảnh này nhưng chỉ đưa ra ba tấm ảnh hở ngực còn những tấm kia hoàn toàn trần trụi và mang đầy vẻ dung tục.
Theo tôi việc đem những tấm ảnh hở ngực trưng bày chen lẫn với những tấm ảnh và bưu thiếp đứng đắn về Hà Nội xưa dễ làm người xem lầm lẫn. Điều tai hại là hậu ý tạo nên cái nhìn sai lạc về một văn hoá và lịch sử của một dân tộc. Ai xem xong cũng tưởng thời ấy phụ nữ Việt ta bệ rạc bên bàn hút, nhếch nhác thả ngực trần như vậy kể cả lúc quang gánh lao động.
Điều đau lòng hơn là người Pháp đã dùng những tấm hình ngực trần ấy làm bưu thiếp. Ngày ấy bưu thiếp rất phổ thông và đa dụng. Người ta xử dụng bưu thiếp với nhiều mục đích như phát triển nghệ thuật, thương mại như du lịch và chính trị như truyền bá một tư tưởng nổi loạn hay hình ảnh một lãnh tụ.
Với một ý đồ chính trị là khai thác chiếc yếm bỏ ngỏ, người Pháp đã dùng những tấm bưu thiếp này lăng nhục phụ nữ Việt Nam như một dân tộc thuộc địa mọi rợ. Nó cũng có tác dụng lôi cuốn đàn ông Pháp càng thấy thích thú hơn trên con đường nhập ngũ viễn chinh qua Việt Nam.
Bàn rộng thêm một chút về chiếc áo yếm xưa.
Thực ra, đôi bờ vú luôn luôn là niềm hãnh diện của phụ nữ, là niềm hoan lạc của phái nam mà cũng là thức ăn thiên nhiên dinh dưỡng vô bờ của trẻ nhỏ. Chiếc yếm che ngực đã được tạo ra như một trang phục truyền thống không những để che thân mà còn là một vật làm đẹp(yếm lụa, yếm gấm) cho các phụ nữ khá giả có tiền, có của. Việc kín/hở hay
cởi /mặc áo yếm đã móc ngoặc vào đức hạnh các phụ nữ như một đặt để trói buộc vô hình. Người đàn bà Việt Nam bị các ông đồ Nho bắt phải đậy, các ông Tây buộc phải cởi, thật là tội cho họ. Họ phải câm khi bị lăng mạ, bị bóp cổ, bị hành hạ, đánh đập, giết chóc, đối xử phi nhân như một món đồ chơi mà không có chọn lựa, không có tiếng nói. Sống mà như hấp hối, không cười, không vui, cô thế và cô đơn.  Đã thế, nỗi thống khổ của cái nghèo, cái sợ, cơn đói kinh niên, áp lực chồng con theo đuổi họ mãi như cái bóng thiết tha nhất. Họ sống lặng lẽ như những bóng ma. Nhưng khác với bóng ma ở chỗ họ kiên cường phục vụ chồng, nuôi nấng con cái và nhất là hy sinh mạng sống lúc cần phải hy sinh. Như câu chuyện của bà nội tôi, của người đàn bà trong truyện “Anh phải sống” của Khái Hưng.
Pascal có một suy tưởng, viết tóm tắt như thế này : “Con người, ai cũng có dĩ vãng, kỷ niệm là dĩ vãng của một cá nhân. Quốc gia nào cũng có dĩ vãng, lịch sử là một dĩ vãng của một dân tộc! Cá nhân, ai cũng yêu kỷ niệm của mình thì dân tộc nào cũng phải yêu lịch sử của họ”
Tôi là một công dân Việt Nam, dù dĩ vãng dân tộc tôi thế nào, tôi vẫn yêu mến lịch sử dân tộc tôi. Dù những hình ảnh phụ nữ Việt Nam xưa bị lăng nhục như thế nào tôi vẫn yêu mến họ. Những người đàn bà yếu đuối kia là tổ tiên tôi, họ là mẹ là bà cố, bà sơ của người Việt chúng ta hiện nay, dưới bất cứ hoàn cảnh nào (kể cả khi lịch sử bị bẻ cong) chúng ta cũng cần phải yêu quý họ, phải không các bạn"
Trịnh Thanh Thủy
Tài liệu tham khảo
-Lý lịch bằng ảnh của một thuộc địa-Kiều Trinh
http://www.baomoi.com/Home/VanHoa/www.sgtt.com.vn/Ly-lich-bang-anh-cua-mot-thuoc-dia/3801039.epi
- Để hiểu hơn về một Hà Nội xưa
http://www.laodong.com.vn/Home/De-hieu-hon-ve-mot-Ha-Noi-xua/20101/172030.laodong

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
“Ý thức xã hội mới Việt Nam “là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm, những tình cảm, tâm trạng, truyền thống tốt đẹp, v.v. của cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phản ánh lợi ích căn bản của nhân dân nhằm phục vụ sự nghiệp xây dựng, bảo vệ xã hội mới”. Nói như thế là cuồng tín, vọng ngoại và phản bội ước vọng đi lên của dân tộc...
Nhiều sự việc thay đổi kể từ thập niên 1970 khi Richard Nixon và Mao Trạch Đông nghĩ ra công thức “một Trung Quốc” cho sự dị biệt của họ đối với quy chế Đài Loan. Nhưng nếu kết hợp với các biện pháp khác để tăng cường việc răn đe chống lại bất kỳ hành động xâm lược bất ngờ nào, chính sách này trong 50 năm qua vẫn có thể giúp cho việc gìn giữ hòa bình. Liệu Trung Quốc có thể cố tấn công Đài Loan vào năm 2027 không? Philip Davidson, Tư lệnh mãn nhiệm của Bộ Tư lệnh Ấn Độ-Thái Bình Dương của Mỹ, nghĩ như vậy hồi năm 2021 và gần đây ông đã tái khẳng định việc đánh giá của mình. Nhưng liệu Hoa Kỳ và Trung Quốc có định sẵn cho cuộc chiến trên hòn đảo này không, đó là một vấn đề khác. Trong khi nguy hiểm là có thật, một kết quả như vậy không phải là không thể tránh khỏi.
Khi nhận xét về chính trị tại Việt Nam, không những các quan sát viên quốc tế mà ngay cả nhân dân đều băn khoăn trước câu hỏi: dưới chế độ CSVN, cả quân đội lẫn công an đều là những công cụ bảo vệ cho đảng và chế độ, nhưng tại sao thế lực của công an và đại tướng công an Tô Lâm lại hoàn toàn lấn át quân đội như thế?
Có nhiều chỉ dấu Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ đã “lọt vào mắt xanh” Trung Quốc để giữ chức Tổng Bí thư đảng CSVN thay ông Nguyễn Phú Trọng nghỉ hưu. Những tín hiệu khích lệ đã vây quanh ông Huệ, 66 tuổi, sau khi ông hoàn tất chuyến thăm Trung Quốc từ 7 đến 12/04/2024.
“Hủ cộng”, tôi có thể hợm mình tuyên bố, với sự chứng thực của Google, là do tôi khai sinh trong khi mấy lời cảm thán tiếp nối là của Tố Hữu khi nhà thơ này, nhân chuyến thăm viếng Cuba, đã tiện lời mắng Mỹ: “Ô hay, bay vẫn ngu hoài vậy!” Gọi “khai sinh” cho hách chứ, kỳ thực, chỉ đơn thuần là học hỏi, kế thừa: sau “hủ nho”, “hủ tây” thì đến “hủ cộng”. “Hủ nho”, theo Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức, là “nhà nho gàn nát”, chỉ giới Nho học cố chấp, từng bị những thành phần duy tân, đặc biệt là nhóm Tự Lực Văn Đoàn, nhạo báng sâu cay vào thập niên 1930. Nếu “hủ nho” phổ biến cả thế kỷ nay rồi thì “hủ tây”, có lẽ, chỉ được mỗi mình cụ Hồ Tá Bang sử dụng trong vòng thân hữu, gia đình. Hồ Tá Bang là một trong những nhà Duy Tân nổi bật vào đầu thế kỷ 20, chủ trương cải cách theo Tây phương nhưng, có lẽ, do không ngửi được bọn mê tín Tây phương nên mới có giọng khinh thường: "Chúng nó trước hủ nho giờ lại hủ tây!" [1]
Mới đấy mà đã 20 năm kể từ khi đảng CSVN cho ra đời Nghị quyết 36 về “Công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài” (26/03/2004-26/03/2024). Nhưng đâu là nguyên nhân chưa có “đoàn kết trong-ngoài” để hòa giải, hòa hợp dân tộc?
Cả Hiến Pháp 2013 và Luật Công An Nhân Dân năm 2018 đều quy định công an nhân dân là lực lượng bảo đảm an toàn cho nhân dân và chống tội phạm. Tại sao trên thực tế nhân dân Việt lại sợ hãi công an CSVN hơn sợ cọp?
Càng gần các Hội nghị Trung ương bàn về vấn đề Nhân sự khóa đảng XIV 2026-2031, nội bộ đảng CSVN đã lộ ra vấn đề đảng viên tiếp tay tuyên truyền chống đảng. Ngoài ra còn có hiện tượng đảng viên, kể cả cấp lãnh đạo chủ chốt đã làm ngơ, quay mặt với những chống phá Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Cộng sản Hồ Chí Minh...
Hí viện Crocus City Hall, cách Kremlin 20 km, hôm 22 tháng O3/2024, đang có buổi trình diển nhạc rock, bị tấn công bằng súng và bom làm chết 143 người tham dự và nhiều người bị thương cho thấy hệ thống an ninh của Poutine bất lực. Trước khi khủng bố xảy ra, tình báo Mỹ đã thông báo nhưng Poutine không tin, trái lại, còn cho là Mỹ kiếm chuyện khiêu khích...
Khi Việt Nam nỗ lực thích ứng với môi trường quốc tế ngày càng cạnh tranh hơn, giới lãnh đạo đất nước đã tự hào về “chính sách ngoại cây giao tre” đa chiều của mình. Được Nguyễn Phú Trọng, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN), thúc đẩy từ giữa thập niên 2010, ý tưởng là bằng cách cân bằng mối quan hệ của Việt Nam với các cường quốc – không đứng về bên nào, tự chủ và thể hiện sự linh hoạt – nó có thể duy trì sự trung gian và lợi ích của mình, đồng thời tận dụng các cơ hội kinh tế do tình trạng cạnh tranh của các đại cường tạo ra
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.