Hôm nay,  

Tại Sao Cần Dự Trữ Ngoại Tệ

12/12/200900:00:00(Xem: 7258)

Tại Sao Cần Dự Trữ Ngoại Tệ

Nguyễn Xuân Nghĩa

Hà Nội cực kỳ lạc hậu nên không theo kịp cách suy nghĩ và phản ứng của thị trường...
Là quỹ bình ổn hối đoái hay quỹ đầu tư"
Trong vụ khủng hoảng tài chánh năm ngoái, nhiều quốc gia vẫn cho rằng Hoa Kỳ là thủ phạm. Sau vụ khủng hoảng, khi kinh tế toàn cầu bị suy thoái, Hoa Kỳ lại là thủ phạm lần nữa vì các biện pháp kích thích kinh tế làm Mỹ kim sụt giá khiến các nước càng khó xuất cảng để kéo kinh tế của họ ra khỏi hố suy sụp. Những tính toán về ngoại giao chính trị còn khiến một số quốc gia đề nghị hoặc vận động việc thay thế Mỹ kim như một ngoại tệ dự trữ. Người ta nói đến ngày tàn của đô la như một chỉ dấu về ngày tàn của đệ nhất siêu cường....
Ngần ấy lý luận chỉ là một phần của sự thật, nên chưa là sự thật.
Khủng hoảng tài chánh có bùng nổ tại Hoa Kỳ, nhưng vì những chứng tật cũng đã có tại nhiều nước khác: bong bóng trên thị trường gia cư khiến nhà cửa lên giá, khủng hoảng tín dụng loại thứ cấp khiến hệ thống tài chánh ngân hàng vỡ nợ, v.v... Nước Mỹ không giữ độc quyền bất cẩn.
Khi khủng hoảng tài chánh bùng nổ ngay giữa một chu kỳ suy trầm - recession - khởi sự từ cuối năm 2007, ngân hàng trung ương Mỹ đã cắt lãi suất tới số không mà chưa thấy công hiệu thì in tiền để bơm vào kinh tế, gọi là quantitative easing (nâng mức lưu hoạt có định lượng). Mỹ kim vì vậy xuống giá. Nhưng sau đó, Chính quyền Barack Obama lại còn tăng chi ào ạt, tiếng là để cứu nguy kinh tế mà thực chất là để cải tạo xã hội. Vì vậy, bội chi ngân sách và gánh nặng công trái lên tới mức kỷ lục mới càng đánh sụt giá đô la.
Khi Mỹ kim mất giá thì hàng Mỹ có rẻ hơn thật, nên Hoa Kỳ có thể gia tăng xuất cảng.
Nhưng mặt trái của sự việc là hàng nhập cảng cũng trở thành đắt hơn, được tiêu thụ ít hơn. Kết quả là nhờ đó mà Mỹ cải thiện được cán cân ngoại thương - là xuất cảng nhiều hơn và nhập cảng ít đi, nhờ đó sẽ giảm số nhập siêu và quân bình lại cán cân chi phó (chi thu bằng ngoại tệ). Tiến trình điều chỉnh cần thiết ấy tất nhiên cũng gây dao động cho nước khác, khi họ cũng cần xuất cảng nhiều hơn và nhập cảng ít hơn... Nhiều nước bị khốn đốn vì dự trữ ngoại tệ của mình bị hao hụt và vai trò của đồng Mỹ kim như một ngoại tệ dự trữ - một phương tiện giao hoán phổ biến và tài sản lưu giữ trong khối dự trữ ngoại tệ.
Cho nên, câu chuyện không thu hẹp vào trách nhiệm đơn phương của nước Mỹ.
***
Tuy nhiên, những biến động hối đoái ấy dẫn tới câu hỏi về chức năng của khối dự trữ ngoại tệ.
Trên nguyên tắc, người ta cần có ngoại tệ - đơn vị tiền tệ của xứ khác - để giải quyết nhu cầu mua bán, mua là nhập cảng, bán là xuất cảng. Bán hàng rồi là thu về ngoại tệ của xứ mua hàng và khi mua hàng thì phải thanh toán bằng ngoại tệ của nước bán hàng. Trong một chu kỳ giao dịch - một tháng hay một năm - để giải quyết nhu cầu thanh toán, người ta cần có sẵn một số dự trữ ngoại tệ, nhiều hay ít thì tùy vào khối lượng giao dịch. Mua bán nhiều làm chênh lệch giữa xuất và nhập cảng càng cao thì càng phải có nhiều dự trữ hơn. Câu hỏi nôm na dễ hiểu là "có đủ dự trữ cho bao nhiêu tuần nhập cảng"" Thời gian càng ngắn thì mức dự trữ này coi là càng ít.
Khi mua nhiều hơn bán thì người ta cần khối dự trữ cao hơn để thỏa mãn nhu cầu thanh toán. Và vì thị trường Hoa Kỳ mua nhiều hàng hóa nhất của thế giới, dự trữ của các xứ khác thường có một tỷ trọng Mỹ kim rất cao và hối suất đồng bạc được tính bằng Mỹ kim, là quy luật phổ biến.
Chuyện thứ hai là ấn định hối suất đồng bạc ấy như thế nào"
***


Hối suất là tỷ giá hối đoái trao đổi giữa đồng nội tệ của quốc gia với đồng ngoại tệ mà xứ này sử dụng nhiều nhất trong việc mua bán. Khi ấn định hối suất thấp - cần ít tiền hơn để có một đơn vị ngoại tệ - thì hàng hoá của mình bán ra sẽ rẻ hơn và hàng nhập cảng sẽ đắt hơn. Trong nhiều thập niên, các quốc gia đều theo chế độ cố định có điều tiết, là ấn định hối suất cố định theo hướng có lợi nhất cho việc mua bán, nhưng vẫn điều chỉnh một cách tiệm tiến để phản ảnh thực tế cung cầu của việc mua bán ấy. Trên lý thuyết thì về dài chế độ hối đoái ấy - giàng giá đồng bạc vào một ngoại tệ, nhưng vẫn điều chỉnh - có thể quân bình được lượng hàng mua vào và bán ra.
Nhưng người ta không quên rằng đồng ngoại tệ ấy cũng là một tài sản, như một cổ phiếu, một trái phiếu - tờ giấy nợ - hay một khối hàng hóa, v.v... và muốn cho tài sản này không mất gí hoặc còn lên giá, nghĩa là mua đi bán lại sao cho có lời. Loài người vốn là sinh vật biết suy nghĩ và phàn ứng sao cho có lợi nhất. Nhiều chính quyền nghĩ rằng ấn định hối suất thấp thì có lợi cho ngoại thương (dễ xuất cảng và khó nhập cảng). Trong khi ấy, thị trường cũng tính toán và phản ứng theo chiều hướng đó là khai thác sự sai biệt trên thị trường hối đoái này....
Chừng hai chục năm trở lại đây, các nước dần dần bãi bỏ chế độ hối đoái cố định mà thả nổi đồng bạc, là để thị trường quyết định về hối suất theo quy luật cung cầu. Nếu xứ này bán nhiều hơn mua thì giá trị đồng bạc tự nhiên phải tăng so với một đồng bạc khác, và ngược lại. Chế độ hối đoái tự do dẫn tới hối suất tự do và trên nguyên tắc - nghĩa là cũng sẽ sai trong thực tế - hối suất sẽ tự điều chỉnh để quân bình lại việc mua bán. Mua nhiều quá thì hối suất sụt nên sẽ giúp cho việc bán hàng dễ dàng hơn và giảm dần khả năng nhập cảng để đi tới cân bằng ngoại thương. Trong thực tế, việc điều chỉnh ấy không tiệm tiến và nhẹ nhàng mà gây nhiều biến động khiến các quốc gia phải có một khối dự trữ ngoại tệ lớn hơn nhu cầu thanh toán việc mua bán. 
Khi ấy, tức là chừng một chục năm về trước, một hiện tượng song hành đã xảy ra.
***
Vì biến động trên thị trường hối đoái, thì muốn giữ giá nội tệ cho thấp, quốc gia phải bán ra số ngoại tệ dự trữ của mình. Và có khi bị khủng hoảng vì hao hụt dự trữ, là trường hợp Thái Lan ngày hai tháng Bảy năm 1997. Vụ khủng hoảng hối đoái ấy dẫn tới khủng hoảng kinh tế cho toàn cõi Đông Á, lan qua Nga, qua Brazil và dội về Hoa Kỳ. Sau vụ khủng hoảng 1997-1998, các nước đều rút tỉa kinh nghiệm nên cố giữ một khối dự trữ thật lớn nếu so sánh với nhu cầu ngoại thương của mình. Thái Lan nay có dự trữ tính ra Mỹ kim thì bằng 100 tỷ, Nam Hàn 200 tỷ, Đài Loan 300 tỷ và Trung Quốc hơn hai ngàn tỷ...
Họ làm gì với khối dự trữ ấy khi nhu cầu thanh toán cho ngoại thương thật ra không lớn như vậy" Họ dùng ngoại tệ ấy để đầu tư, và dự trữ ngoại tệ trở thành quỹ đầu tư. Nhu cầu đầu tư - mua cái gì, ở đâu, thì có lợi nhất an toàn nhất" - mới quyết định về tỷ phần ngoại tệ trong khối dự trữ này. Nếu đầu tư vào Mỹ có lợi hơn vào Âu châu hay Nhật Bản thì tỷ trọng Mỹ kim trong quỹ đầu tư này cao hơn so với đồng Euro hay đồng Yen.
Đó là trào lưu chung của thế giới và cuộc tranh luận về tương lai đồng Mỹ kim không làm sáng tỏ vấn đề nếu không vạch ra một sự thật mới: khối dự trữ ngoại tệ không còn là quỹ bình ổn hối đoái mà là quỹ đầu tư. Và tính toán về đầu tư - hơn là ngoại thương - mới quyết định về cơ cấu các loại ngoại tệ trong khối dự trữ này.
Ngoại lệ là... Việt Nam.
Hà Nội cực kỳ lạc hậu nên không theo kịp cách suy nghĩ và phản ứng của thị trường khi ấn định hối suất so với đồng Mỹ kim theo lối chủ quan duy ý chí và bị thị trường đánh ngược. Dự trữ ngoại tệ đã hao hụt vì nhập nhiều hơn xuất lại càng hao hụt vì phản ứng đầu cơ của thị trường, cả nội địa lẫn quốc tế. Từ 23 tỷ Mỹ kim nay chỉ còn 16 tỷ và quá mỏng so với nhu cầu nhập cảng quá lớn. Một vụ khủng hoảng hối đoái vì vậy sẽ rất dễ xảy ra.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Đảng Cộng sản Việt Nam (CSVN) nhìn nhận tình trạng “trẻ hóa” trong suy thoái “tư tưởng chính trị ” và “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đang gây khó khăn cho công tác “xây dựng, chỉnh đốn đảng”...
Năm 2024 là năm bầu cử, một năm gay go thử thách, và đề tài yêu ghét dù muốn hay không muốn đã trở lại trên các trang báo, trong các buổi tranh luận trong gia đình, ngoài xã hội. Chúc bàn tiệc trong năm của quý vị rôm rả những câu chuyện, những cuộc đối thoại bổ ích hai chiều, những thay đổi tốt đẹp. Và xin cảm ơn quý thân hữu, thân chủ đã hỗ trợ, gắn bó cùng hành trình với Việt Báo trong hơn 31 năm qua. Sau cùng là lời tri ân đến các độc giả Việt Báo: chính quý vị, những người đọc khó tính là thành trì giúp Việt Báo trở thành một tờ báo uy tín, chuyên nghiệp.
Năm 2023 tiến vào những ngày cuối cùng, nó sẽ đi qua và không bao giờ trở lại. Lịch sử sẽ đi qua nhưng những việc làm của con người sẽ tồn tại với sự khôn ngoan và ngu ngốc của đa số. Cụm từ ‘con-người-đa-số’ chỉ định ý muốn chung của đa số người. Và ‘con-người-thiểu-số’ đành phải tuân theo. Trò sinh hoạt dân chủ luôn luôn là con dao hai lưỡi có hiệu quả tùy thuộc sở thích của con người đa số. Sở thích? Một thứ tạo ra tốt lành hoặc khổ nạn. Đúng ra là cả hai, nhưng có một trong hai sẽ lớn hơn, đôi khi, lớn gấp bội phần. Nếu khổ nạn quá lớn thì cuộc sống chung sẽ thay đổi, có khi lâm vào mức tồi tệ. Chẳng hạn như trường hợp nước Đức dưới thời Hitler. Ý muốn của con người đa số đam mê nồng nhiệt ý muốn của Hitler. Cho ông ta cơ hội dẫn đầu một quốc gia quyền lực, tạo ra hiệu quả cuộc chiến thế giới thứ hai. Hậu quả tàn khốc đó do ai? Hitler? Đúng một phần.
“Tự diễn biến, tự chuyển hóa” trong Lực lượng vũ trang nhân dân là mối lo hàng đầu của đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay. Bằng chứng này đã được Tổng Bí thư đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng đưa ra tại Hội nghị Đảng ủy Công an ngày 20/12/2023 tại Hà Nội, và trong nội dung các bài viết trên báo chí chính thống của nhà nước liên quan đến Quân đội...
Người ta nên áp dụng đạo đức vào tài chính trị của Henry Kissinger như thế nào? Làm thế nào để người ta quân bình những thành tựu với những hành vi sai trái của Kissinger? Tôi đã vật lộn với những vấn đề đó từ khi Kissinger là giáo sư của tôi, và sau này là đồng nghiệp tại Đại học Harvard. Vào tháng Tư năm 2012, tôi đã giúp phỏng vấn ông trước một số lượng lớn cử toạ tại Harvard và hỏi liệu ông có làm điều gì khác đi trong thời gian làm ngoại trưởng cho các Tổng thống Hoa Kỳ Richard Nixon và Gerald Ford không. Lúc đầu, ông nói không. Suy nghĩ lại, ông nói rằng ước mình là đã hoạt động tích cực hơn ở Trung Đông. Nhưng ông không đề cập đến Campuchia, Chile, Pakistan hay Việt Nam. Một người phản đối ở phía sau hội trường hét lên: "Tội phạm chiến tranh!"
Việt Nam có còn “độc lập” với Trung Quốc hay không sau chuyến thăm Hà Nội của Tổng Bí thư, Chủ tịch nhà nước Tập Cận Bình là thắc mắc của người dân Việt Nam. Ông Tập có mặt ở Việt Nam từ 12 đến 13 tháng 12 năm 2023 và đạt được cam kết của Tổng Bí thư đảng CSVN Nguyễn Phú Trọng về “xây dựng Cộng đồng chia sẻ tương lai Việt Nam-Trung Quốc”.
Ngày nay, Chiến lược Phòng thủ Quốc gia của Hoa Kỳ – giống như chiến lược Chiến tranh Lạnh tạo chuẩn mực cho tư duy chiến lược trong những năm từ thập kỷ ‘50 đến ’80 – bị chi phối bởi một tác nhân đe dọa chính, đó là Trung Quốc. Điều này vừa cung cấp thông tin vừa tạo điều kiện cho tất cả các mối đe dọa lớn khác có thể xảy ra: Nga, Iran và Bắc Triều Tiên. Giống như thời kỳ Chiến tranh Lạnh, Hoa Kỳ hiện đang lâm vào một cuộc cạnh tranh với đối thủ duy nhất của mình, một cuộc cạnh tranh có khả năng bỏ rơi các thành tựu chính trị, kinh tế và công nghệ. Hoa Kỳ cũng đang ở trong một cuộc chạy đua vũ trang hiện đại, và trong một số trường hợp, chơi trò đuổi bắt và tranh đua để giành tình hữu nghị, gây ảnh hưởng lên các quốc gia khác trên thế giới.
Rồi vào ngày 12/12/2023, tức chỉ sau ba tháng, Việt Nam lại long trọng tiếp đón Chủ Tịch Tập Cận Bình và nói rằng hợp tác và hữu nghị với Trung Quốc là lựa chọn chiến lược của Việt Nam...
Chỉ ba tháng sau khi Việt Nam nâng cấp quan hệ với Mỹ lên cấp cao nhất trong hệ thống phân cấp ngoại giao trong chuyến thăm của Tổng thống Biden, người ta thấy Chủ tịch Tập Cận Bình của Trung Quốc đã trở thành nhà lãnh đạo thế giới mới nhất tăng cường quan hệ với Việt Nam với chuyến thăm Hà Nội trong tuần này...
Chuyến thăm Việt Nam hai ngày của Tổng Bí thư Đảng, Chủ tịch nước Cộng sản Trung Quốc, Tập Cận Bình đã để lại nhiều hệ lụy cho nhân dân Việt Nam hơn bao giờ hết. Bằng chứng này được thể hiện trong Tuyên bố chung ngày 13/12/2023 theo đó họ Tập thay quan điểm “cộng đồng chung vận mệnh” bằng “xây dựng Cộng đồng chia sẻ tương lai” cho hai nước...
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.