Hôm nay,  

Đọc ‘ráng Chịu’ Của Trạch Gầm!

02/10/200900:00:00(Xem: 8934)

Đọc ‘Ráng Chịu’ của Trạch Gầm!

Bìa trước & sau thi tập “Ráng Chịu”.

letamanh
Vừa đi làm về đến nhà là nghe tiếng chuông cửa , không biết mấy tên Mễ hay mấy tay bán dạo quấy phá; tôi lén nhìn qua cửa sổ, thì ra Trạch Gầm đang đứng ngoài với chiếc mũ lính thường xuyên trên đầu!
-Chào ông trời con! sao không gọi phôn trước cha nội"
-Gọi làm gì cho mệt! Mới ở nhà in về, đem tặng ông tập thơ coi chơi!
Tôi mời Hắn ngồi, Hắn không ngồi mà đi thẳng vào chào vợ tôi - Hắn vốn là một anh chàng chuyên môn chưởi thề theo kiểu người Nam, nhưng rất ư là lịch sự với phái nữ. Hắn chào vợ tôi – nhà văn Mỹ Hiệp – và sau đó chúng tôi trao đổi với nhau về tập thơ “Vụn Vặt” trước kia và tập “Ráng Chịu” mới ra lò! Vợ tôi ngắm nghía tập thơ và hỏi:
-Anh Trạch nầy! sao người ta vẽ hình của anh có cái đầu lạ quá vậy, tóc tai cọng nào cọng nấy lung tung còn má thì nhăn nhó trông già quá đổi!
Tôi đỡ lời:
-Ý của họa sĩ là cái đầu của Trạch Gầm chứa đủ thứ trong từng ngăn dưới cái nón nhà binh. Suy nghĩ quá nên da nhăn nheo, miệng mồm xệ ra... Thế mới là thi sĩ, là nhà thơ chứ!
-Chứa toàn tiếng chửi thề thôi ông ơi!
Trạch Gầm cãi, chúng tôi cùng cười...
***
Đây là tập thơ được trình bày rất là thơ hòa với họa. Bìa trước do Họa Sĩ Dương Ngọc Sum cô đọng bởi một họa phẩm đầy ẩn dụ. Bìa sau họa sĩ Lương Trường Thọ phụ trách với cái đầu đầy thơ của một anh nhà binh thất thời...và một đoạn thơ nhớ Thẩm Quyền Ngô Minh Hồng! Tập thơ dầy 150 trang, in ấn đẹp, nghệ thuật trên giấy trắng trang trọng.
Trong suốt những dòng thơ được trình bày xen với nhạc phổ thơ do các nhạc sĩ yêu thơ Trạch Gầm và những hình ảnh lính trận ngày xưa; chưa xem nội dung ta đã thấy tập thơ là một minh họa cho dòng lịch sử đã qua và ngay bây giờ. Trải ra trên nét thơ, âm hưởng chữ nghĩa nhà binh, vừa có tính trong giới anh chị vừa bình dân, lồng trong những danh từ thật chính xác để cào cấu vào thực tế bởi những tiếng chưởi thề vô cùng ức uất, Trạch Gầm đã làm cho ta choáng váng... Thơ của Trạch Gầm không giống như thơ của bất cứ thi sĩ nào, nó mang màu sắc vừa của giới anh chị vừa của một tên thất chí vì lý tưởng của mình bị kẻ thù chà đạp’ Không phải chúng chỉ chà đạp một mình tác giả mà lên cả dân tộc Việt Nam:
Đụ má, cho tao chưởi mầy một tiếng
Đất của ông cha sao mầy cắt cho Tàu,
Ngậm phải củ gì mà mầy cứng miệng
Đảng của mầy, chết mẹ... đảng tào lao!...
Cứ xem bốn câu thơ trên đủ thấy cái tức tối trào dâng trong lòng người yêu nước phải phun ra những tiếng chưởi thề. Bài thơ đó đã được mọi người tán thưởng và những tiếng chưởi thề trong thơ Trạch Gầm dể dàng đi vào lòng người mà không bị ai than phiền cũng là một nghệ thuật dùng chữ đúng lúc! Bài thơ chính trong tập thơ Ráng chịu có những câu như sau:
...Ta vào lính, bài học đầu, ráng chịu
cứ thi hành, muốn khiếu nại, làm sau
Mỗi một mạng... đổi được vài ba phút
Chiến trường đau ngập lút, lút cả đầu


... Trang nhật ký người lại thêm nước mắt
Ráng chịu te tua, ráng chịu tận cùng
Bọn ta sống sao Quê Hương lại mất
Xót xa nầy... còn ráng chịu nỗi không
Cắn rướm môi...người nhìn ta chết sững
Tuổi ba mươi mà lịm thế này sao
Bọn ta đổi bao hành trình bằng máu
Lại mất sạch rồi, mất dễ vầy sao
Người còn muốn cùng ta ráng chịu
Lại đạp đau thương, lại kiếm thanh bình
Người đã lỡ rồi làm người yêu lính
Ta đã lỡ rồi mang nợ đao binh
Ta thấy trong Ráng Chịu phảng phất những nét hào hùng của một người cố gắng cúi đầu trước nghịch cãnh chờ thời. Có thể cũng giống như Câu Tiễn phải nằm gai nếm mật để đợi ngày toàn thể dân tộc đứng lên dựng lại ngọn cờ!
Muốn nói hết con người thơ và những nhận xét về Trạch Gầm, ta không thể nào có thể diễn tả đủ bằng một bậc thầy - người ta thường gọi kính trọng là Hà Chưởng Môn – đã  đề cập đến Trạch Gầm. trong buổi ra mắt tập thơ Vụn Vặt tại Thư viện Việt Nam năm 2007, tôi có phát biểu về cảm tưởng của mình và diễn tả tại sao con trạch lại biến thành con rồng để ngày đêm gầm gừ trước kẻ thù cướp nước. Hà Chưởng Môn cũng đã hạ bút:
Khi Trạch muốn, Trạch Gầm, Trạch hú
ta muốn nghe cái hú trạch Gầm
Thơ người nếu chẳng lặng câm
cũng nên gầm một tiếng gầm thật to!
Con hùm đã nằm co trong lưới
chẳng gầm lên thật mới dỡ tuồng
anh không hò hét i uông
làm nên quân giữa chiến trường cũng vui
Con hai đứa choai choai vừa lớn
Tuổi làng nhàng mơn mỡn đào tơ
Nếu không gióng trống phất cờ
Trận tiền im lặng như  tờ là sao
Chữ liên miên dạ cao chẳng thẹn
 chuyện tang bồng xin hen cùng ai
N ếu như tiền chẳng đã xài
Có đâu đủ hẹn cái tài trượng phu
Cam làm kẻ ngu phu ngu phụ
Biến thế gian làm nụ cười tình
Nhiều khi mình tự hỏi mình
Có ra gì nữa cái hình phù du
Trong cuộc chiến dù thu thắng lợi
Ta đâu cần thất bại thành công
Hơn nhau duy một tấm lòng
Tấm lòng đối với non sông vững bền
Cho nên lúc tiến lên khỏi thẹn
khi lui về đâu hẹn rút lui
Nghĩ xem phút chốc bùi ngùi
Ngọn cờ buông sõng ta lùi vào đâu
Chạy rong khắp năm châu bồn bể
Có cơm no đã kể là nhà
Nhìn nhau thẹn với quốc gia
Không gầm không thét thì ra mình hèn
Trạch ơi Trạch, trắng đen là thế
Trách mấy thằng vai vế lui binh
Tủi hận tấn cuội hòa bình
Cũng hô giải phóng dân thành dân ma.
Hà thượng Nhân
Đọc bài thơ của cụ Hà Chưởng Môn là ta không thể nói gì về nhà thơ Trạch Gầm thêm nữa. Tâm trạng Trach Gầm cũng là tâm trạng người lính VNCH đã phải tức tưởi buông súng để cho quân thù dày xéo quê hương và tự mình chui vào những trại tập trung để tự nguyện ngồi tù! Đã đọc và tán thưởng Vụn Vặt thì hãy mang về tập thơ Ráng Chịu của nhà thơ mang đầy ắp uất hận, thét lên, gầm lên rất giang hồ, rất con người: Trạch Gầm! Người viết xin chúc mừng “Ráng Chịu” đã ra lò và chúc nhà thơ sẽ cho ra đời nhiều tác phẩm nữa trong tương lai không phải là “Ráng Chiụ” nữa mà phải là “Vùng Lên” là “Đạp bằng sóng gió”!
letamanh
cuối tháng 10-09

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Lực lượng Hồi giáo Taliban lên nắm quyền tại Afghanistan không chỉ làm thay đổi triệt để hệ thống chính trị quốc nội mà còn tình hình an ninh khu vực và quốc tế.
Một gian thương trộn 10% đồng vào vàng rồi rao bán vàng nguyên chất sẽ bị bỏ tù về tội lừa đảo. Nhà nước in tờ giấy bạc 100 đồng nhưng giá trị chỉ còn lại 90 đồng nhưng lại gọi là 10% lạm phát (inflation, tức là tiền mất giá.) Nếu bạn đọc thay vì mua tivi 32 inch năm nay chờ thêm 2 năm mua tivi 50 inch lớn hơn, đẹp hơn mà giá lại rẻ hơn thì gọi là giảm phát (deflation, tức là hàng hóa mất giá.)
Cơn mưa phùn đêm qua còn đọng nước trên đường. Gió thu đã về. Lá vàng theo gió lác đác vài chiếc cuốn vào tận thềm hiên. Cây phong đầu ngõ lại chuẩn bị trổ sắc đỏ ối như mọi năm. Người đi xa từ những mùa thu trước, sẽ không trở về. Những người bạn lâu không gặp, thư gửi đi bị trả lại, nhắn tin điện thoại không thấy trả lời. Có lẽ cũng đã ra đi, không lời từ biệt. Đã có những cuộc ra đi rất lặng lẽ từ gần hai năm qua, không chỉ ở nơi đây, mà ở khắp toàn cầu. Ra đi bất ngờ, ra đi nhanh chóng. Không hoa tang. Không lễ nghi tôn giáo. Không lời ai điếu. Những túi bọc thi thể chất vội vào những thùng xe đông lạnh. Những thi hài quấn vải hoặc cuộn trong manh chiếu được chất trên những giàn củi, hỏa thiêu. Những chiếc quan tài được chôn lấp vội vàng trên đất công, với bia mộ đơn giản, không hình ảnh, ghi tên tuổi của một người già bệnh hay một người trẻ cường tráng, một người quyền quý hay một người bần cùng vô danh… Tất cả những người ra đi ấy, từ những nơi chốn khác nhau, thành thị hay
Hoá ra không phải chùm khế nào cũng ngọt. Quê hương, đôi khi, cũng thế. Cũng chua chát và đắng nghét đối với rất nhiều người mà tôi (chả may) là một. Cùng cả triệu dân Việt khác, tôi cũng đã có lúc hốt hoảng đâm sầm ra biển (dù không biết bơi) khi tóc hãy còn xanh. May mắn, tôi thoát chết. Lên lại được bờ, tôi đi lang thang tứ xứ cho mãi đến khi tóc đã đổi mầu nhưng vẫn chưa bao giờ trở về cố lý. Có kẻ tưởng là tôi chảnh, có mới nới cũ, có trăng quên đèn, quên cả cố hương. Không dám chảnh đâu. Tôi bị chúng “cấm cửa” mà!
Dù vậy, tôi vẫn cũng còn có đôi chút suy nghĩ lăn tăn. Hay nói theo ngôn ngữ của thi ca là vẫn (nghe) “sao có tiếng sóng ở trong lòng.” Chúng ta có nhất thiết phải đốt cả dẫy Trường Sơn, phải hy sinh đến cái lai quần, và hàng chục triệu mạng người – thuộc mấy thế hệ kế tiếp nhau – chỉ để tạo nên một đống bùn bẩn thỉu nhầy nhụa như hiện tại không?
Một sự trùng hợp về thời gian 20 năm trong chiến tranh Việt Nam đã lập lại ở Afghanistan vào ngày 15/08/2021 với hình ảnh chiếc trực thăng di tản người Mỹ chạy thoát từ nóc Tòa Đại sứ Mỹ trong lúc phiến quân Taliban đã chiếm dinh Tổng thống không tốn một viên đạn, ngay sau khi Tổng thống Ashraf Ghani bỏ trốn ra nước ngoài.
Mùa Vu Lan hiếu hạnh – báo ân cha mẹ – là truyền thống lâu đời của người con hiếu thảo nhưng làm sao tạo được một cơ hội chia sẻ, an ủi và liên tưởng đến mặt phản diện của những đứa con bất hiếu chưa gặp duyên lành để biết ăn năn sám hối trở về với cha mẹ.
Nhận định của một số giới chức quân sự và chính trị cho đó là thất bại về tình báo từ phía Hoa Kỳ đã đánh giá sai về bộ đội cộng sản Bắc Việt trong chiến tranh Việt Nam, nay lại sai về quân Taliban ở Afghanistan khiến Mỹ phải vội vàng di tản. Hình ảnh máy bay trực thăng di tản người Mỹ và những người đã hợp tác với Hoa Kỳ ra khỏi Sài Gòn cuối tháng Tư 1975 và ngày 15/8 vừa qua ra khỏi Kabul sẽ còn in dấu trong tâm thức người Mỹ và dư luận thế giới trong nhiều năm.
Trên Bloomberg Opinion ngày 26 tháng 04 năm 2021, một trong hai tác giả là Cựu Đô đốc James G. Stavridis, trình bày kịch bản này trong bài “Four Ways a China-US War at Sea Could Play Out” mà bản dịch sau đây sẽ giới thiệu. Theo Stavridis,“bốn điểm nóng” mà Hải quân Trung Quốc có khả năng tấn công là eo biển Đài Loan, Nhật Bản và Biển Hoa Đông, Biển Hoa Nam và các vùng biển xa hơn xung quanh các nước Indonesia, Singapore, Australia và Ấn Độ. Nhưng nguy cơ cao nhất là Đài Loan.
Đó là lý do cần nhắc sơ lại Hòa Ước Doha 2020, bởi nếu xem chính phủ Afghanistan là một "đồng minh" của Hoa Kỳ thì đồng minh này đã bị phản bội và bức tử ngay tháng Hai năm 2020 theo sau Hòa Ước Doha của nội các Donald Trump ký với Taliban chứ không phải hôm nay. Liệu có cần nhắc lại hòa đàm Paris vào năm 1973 đã dẫn đến sự sụp đổ báo trước của miền Nam Việt Nam vào tháng Tư năm 1975? Và giới sử gia thường nhắc lại vai trò của tổng thống Richard Nixon và Ngoại trưởng Henry Kissinger trong việc bỏ rơi Nam Việt Nam chứ không phải tổng thống Gerald Ford, vị tổng thống Mỹ đương nhiệm năm 1975.
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.